(Tạm thời chưa có phim)
THUYẾT MINH
THUYẾT MINH
1. Đoàn
người về căn cứ rừng đước, nhìn đước : 32”
Nơi ấy là rừng đước Năm Căn, Mũi
Cà Mau, mảnh đất mà ngành in ấn Miền Tây Nam bộ trong những năm chống Mỹ đã náu
nương, hoạt động và trưởng thành.
Từ một đội ngũ chuyên môn ít ỏi, với
thiết bị thô sơ, ngành in đã vượt qua biết bao khó khăn gian khổ để hoàn thành
nhiệm vụ.
Trở
lại vùng căn cứ kháng chiến, những người chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng ngày
ấy, hẳn không thể nào quên những kỷ niệm còn hằn in mãi trong ký ức.
(Tựa phim)
2. Các
nhân chứng xem ảnh, Mặt trận ra đời : 45”
Kỷ niệm hãy còn đậm như in, dù bao năm
sau chiến tranh đã đi qua. Trong số những cán bộ ngành in này, có người còn lưu
giữ được vài tấm ảnh cũ. Nó đơn giản nhưng lại là cả một dấu ấn lớn về một thời
đã đi qua – Đó là những năm tháng giữa rừng sâu, chính những con người này đã
in ra những trang báo, cơ quan ngôn luận
của Đảng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây Nam bộ.
( # )
Ngày
20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, sau đó, ngày
12/5/1961, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Tây Nam bộ cũng đã được thành lập.
(Lời ông Nhã về Mặt trận ra đời
và ngành in ra đời)
Được chuẩn bị từ những tháng sau Đồng
Khởi, cơ sở nhà in Bạc Liêu nhận quyết định chuyển về trực thuộc Ban Tuyên Văn
Giáo Khu. Tờ báo Giải phóng đầu tiên được in khẩn trương để chào mừng Mặt trận
ra đời.
(Lời ông Hai Thường về lấy tên cơ
quan nhà in)
3. Rừng
U Minh, người đi, xem các tờ báo : 40”
Lúc bấy giờ, cán bộ, công nhân nhà in vỏn vẹn chỉ
có 12 đồng chí. Đầu tiên, vùng U Minh Thượng thuộc xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh
Thuận, Rạch Giá được chọn làm căn cứ của cơ quan in ấn khu.
Giữa
U Minh “muỗi như sáo thổi”, với hai máy in cũ kỹ và 20 bộ chữ hiếm hoi, Nhà in
Giải phóng miền Tây Nam bộ đã lần lượt cho ra đời hàng chục tài liệu tuyên
truyền của tỉnh ủy, mặt trận và các đoàn thể. Có được thành tích ban đầu này là
cả sự tích lũy kinh nghiệm từ phương pháp tổ chức Cách mạng ; từ cuộc kháng
chiến chống Pháp.
(Lời ông Nguyễn Văn Lưu về các
cách in thời chống Pháp phát triển dần)
4. Nhà
in, xếp chữ ; xếp giấy : 46”
Để đảm bảo an toàn và bí mật, Nhà in
Giải phóng miền Tây Nam bộ được chuyển về căn cứ rừng đước Năm Căn, Cà Mau, vào
đầu năm 1962. Tại đây, công việc in ấn được củng cố hoàn thiện và tổ chức với
quy mô lớn, đáp ứng nhu cầu tuyên truyền ngày càng tăng.
Ngoài nguồn chữ chì được bổ sung liên
tục, Nhà in còn được trang bị thêm máy in mới, mua ở vùng tạm chiếm. Đội ngũ
công nhân cũng được đào tạo thêm để kịp thời phục vụ yêu cầu Cách mạng trong
tình hình mới.
Đến các năm 64, 65, ngoài tờ báo Giải
phóng miền Tây Nam bộ, Nhà in còn thực hiện các ấn phẩm sách Giáo khoa với ấn
hiệu là Nhà in Cửu Long.
( # 9”)
5. Nhà
in Cần Thơ, xem chữ chì, người xếp chữ, ảnh :
Bây giờ, trở lại thăm ngành in, bên
những máy móc hiện đại, những hộc gỗ chữ chì như vẫn còn lấp lánh – Vật kỷ niệm
của những người chiến sĩ trên mặt trận thầm lặng năm xưa.
Thử xếp lại những con chữ cũ để nhớ
mãi những tháng năm gian khổ giữa rừng, những ngày vừa chống càn vừa in ấn ;
những ngày mà mỗi tờ tin, bài báo in ra được sánh như một đòn giáng trả kẻ thù
…
( # 10”)
Lạ thay, giữa rừng sâu thiếu thốn,
giữa sự dòm ngó của giặc mà những công nhân bình dị này đã in ra hàng triệu
trang sách, hàng chục ngàn tờ truyền đơn, bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.
Rồi những ấn phẩm đó được tổ chức
chuyển đến đồng bào, chiến sĩ ; đến cả vùng địch tạm chiếm và đô thị.
( # 10”)
6.
Xuồng ghe ra chợ : 11”
Chiến tranh nhân dân đã huy động mọi tiềm lực của quần chúng. Nhiều chị em đã luồn ra vùng địch kiểm soát, mua giấy, mực in rồi tìm cách ngụy trang đưa về chiến khu.
(Lời ông Sáu Phong về mua giấy,
làm bột giấy)
7. Anh
biên tập, chép tin, dân xem báo :
Những khó khăn được khắc phục để hoàn
thiện dần guồng máy tổ chức nội dung và in ấn.
Vào các năm 65, 66, cơ quan Thông tin
báo chí của Mặt trận nam bộ hình thành, nhu cầu xuất bản ấn phẩm tăng nhanh. Tờ
báo Giải Phóng thường xuyên đến tay độc giả đã tạo một sinh khí mới cho phong
trào quần chúng.
Thông tin từ các ấn phẩm báo chí Cách
mạng lại được phổ biến bằng nhiều hình thức khác, tạo hiệu quả tuyên truyền
ngày càng sâu rộng đối với đồng bào vùng giải phóng.
( # 9”)
8.
Phong trào tiến tới Tổng tấn công Mậu Thân :
Cuối năm 196, vùng giải phóng ở miền
Tây Nam bộ mở rộng, các phong trào quần chúng lớn mạnh hơn bao giờ hết. Cục
diện chiến trường chung trên toàn miền Nam thay đổi có lợi cho ta.
Không khí cuộc Tổng tấn công nổi dậy
mùa Xuân 1968 sôi động từng giờ.
( # 10”)
Giữa khí thế “một ngày bằng hai mươi
năm” lúc bấy giờ, Nhà in miền Tây Nam bộ được Khu ủy giao nhiệm vụ tổ chức một
bộ phận gọn nhẹ, phục vụ chiến trường trọng điểm. Sáng 30 Tết năm đó, các đồng
chí phấn khởi nhận lệnh.
(Lời ông Hai Thường về in lệnh
Tổng tấn công)
9. Ghe
xuồng, báo “Vùng lên” : 17”
Ngay
trong các đợt Tổng tiến công, ngoài các bản tin, truyền đơn binh vận phục vụ
cho chiến dịch, bộ phận in chiến trường còn cho ra ấn phẩm báo “Vùng lên”, “Cờ
giải phóng”, cơ quan ngôn luận của Thành ủy, Uy ban khởi nghĩa thành phố Cần
Thơ.
(Lời ông Ba Ngôn về nhiệm vụ
chính trị)
10. Rải
truyền đơn, trực thăng, địch càn, căn cứ U Minh :
Biết rõ sức mạnh tuyên truyền của các
ấn phẩm Cách mạng, Mỹ ngụy ráo riết phản kích, săn lùng các cơ quan đầu não của
miền Tây Nam bộ. Chúng mở chiến dịch thọc sâu vào rừng U Minh, chà đi xát lại
nhiều ngày, tung bọn gián điệp và biệt kích sục sạo, thu lấy máy in của ta.
Chúng bày trò triển lãm ở đô thị và cao rao rằng, đó là thành tích của chiến
dịch “Nhổ cỏ U Minh”.
(Lời ông Tư Kiệt về địch và khắc
phục của ta)
11. Tờ
báo Giải Phóng ra khung, lắp ráp máy mới : 15’
Và tờ báo mang tên Giải Phóng vẫn tiếp
tục được in ấn và phát hành. Sau đó không lâu, bằng ý chí giáng trả kẻ thù, cán
bộ, công nhân Nhà in đã khắc phục mọi khó khăn, lắp ráp máy in mới.
(Lời ông Tư Kiệt nói về ý chí của
công nhân)
12.
Ngụy trang nhà in, chuyền nước ngọt :
( # 10”)
Sống
giữa rừng ngập mặn, nguồn nước ngọt phải đi lấy xa hàng chục cây số, công nhân
nhà in lại phải đối mặt với những thách thức mới.
Mọi gian khổ rồi cũng đi qua, các
chiến sĩ ngành in chuẩn bị một cuộc sống
lâu dài ở chiến khu. Ở những khu rừng bị địch khai quang, bắn phá, công
nhân và đồng bào vùng căn cứ chung tay giúp đước tái sinh.
( # 7”)
Khi
“đước đã mọc thành rừng gỗ cứng”, Nhà in sẽ được bảo vệ tốt hơn.
(Lời ông Hai Đáng về cách bảo vệ)
( # 8”)
13. Đốn
đước, nhà :
Khi xây dựng khu nhà đủ sức chịu lực
cho các máy móc in ấn, các công nhân lựa những cây đước chắc chắn nhất để làm
rườn, nhưng vẫn giữ cho rừng luôn kín đáo, tránh sự dòm ngó của địch từ trên
không.
Phải mất nhiều ngày tháng và công sức,
một khu làm việc khang trang như thế mới hoàn thành, đảm bảo cho nhiệm vụ in ấn
lâu dài.
(Lời ông Ba Bé về làm nhà, căn
cứ)
( # 9”)
14.
Người nhìn, lia đước, tư liệu bắt cua, đổ gạo :
Trở lại rừng xưa, những người từng
sống, từng trải qua bao năm tháng làm nhiệm vụ giữa rừng sâu, hẳn là kỷ niệm
xưa đang sống dậy, hiện rõ như in về gắn bó với đất, với người vùng căn cứ …
( # )
Ở các vàm rạch, xưa thường gọi là “cửa
hang”, người dân không chỉ là cơ sở bảo vệ bí mật cho Nhà in, mà còn là nơi
cung cấp lương thực, thực phẩm cho công nhân.
( # )
Vào các năm 69 – 70, lắm lúc vùng căn
cứ Năm Căn bị địch chia cắt, cô lập, ngoài thiếu nước ngọt công nhân nhà in còn
thiếu cả lương thực.
Lúc đó nhiều gia đình phải ăn độn trái
mấm, ăn sòng bí rợ, nhưng vì tin Đảng, yêu Cách mạng, người dân sẵn sàng nhường
cho Nhà in những phần gạo ít ỏi của mình.
Tình dân bao la, thắm thiết là vậy.
Cho dù bao lâu nữa, dẫu cho cuộc sống có đổi thay, những hình ảnh này vẫn không
bao giờ khuất mờ trong kỷ niệm.
(Lời ông Tư Nghiệp nói về kỷ niệm)
14. Đọc
nghị quyết ; báo năm 73, xem báo :
Từ mùa Xuân đến
mùa Hè 197, phong trào Cách mạng miền Nam lại chuyển thế tiến công liên tục
trên khắp các chiến trường. Ở hậu phương, cán bộ, công nhân Nhà in và lực lượng
Thông tin báo chí được học tập tình hình nhiệm vụ mới. Công tác củng cố tổ chức
và tăng cường phương tiện của nhà in được đặt ra hàng đầu, trong đó việc đầu
tiên là chuẩn bị cho tờ báo Xuân 1973.
( # )
Hiệp định Pari được ký kết, thắng lợi
ngoại giao và thắng lợi trên các chiến trường tạo nên sinh khí mới cho tờ báo
đặc biệt này.
( # )
Tờ báo ra mắt kịp thời, chuyển tải đầy
đủ thông tin về Hiệp định Pari là niềm tự hào của người làm báo và Nhà in Giải
Phóng miền Tây.
(Lời ông Hai Thường về Hiệp định
và sự bám trụ)
15. Họp
khu ủy, tờ báo Giải Phóng, chở đi :
Tại rừng U Minh, đầu năm 1973, Khu ủy
khu Tây Nam bộ tổ chức hội nghị triển
khai tinh thần quyết tâm mới. Chống địch giành đất giành dân, bảo vệ vùng giải
phóng và thành quả Cách mạng. Chống ảo tưởng hòa bình và kiên quyết trừng trị
địch vi phạm Hiệp định. Hội nghị khẳng định vai trò của TTTT trong tình hình
mới. Và tờ báo Giải Phóng liên tục ra mắt, góp phần vào thế tiến công mới của
quân dân miền Tây Nam bộ. Các ấn phẩm trong thời điểm ấy cổ vũ tích cực cho đà
thắng lợi mới.
(Lời ông Năm Bình về thắng lợi
1975)
16. Tờ
Giải Phóng 75, tham quan Xí nghiệp in :
Giữa không khí tưng bừng của mùa Xuân
1975 lịch sử, tờ báo Giải phóng miền Tây Nam bộ ra mắt, như một chiến công mới
góp phần cho thắng lợi cuối cùng. Bây giờ, mỗi lần ôn lại là một lần nhận rõ
thêm ý chí tiến công của đồng nghiệp năm xưa. Những tờ tuyền đơn mang chính
sách 10 điểm của Cách mạng kịp thời đến tay binh sĩ ngụy vào ngày 30/4/75 thực
chất là một tác động lớn, làm cho đối phương nhận ra chính nghĩa mà trở về với
dân tộc.
( # 7”)
Những người chiến đấu trên mặt trận in
ấn thầm lặng đầy tự hào về sự đóng góp của mình cho ngày toàn thắng. Họ đã cùng
đất nước đi từ gian khổ ác liệt đến những giây phút khải hoàn thiêng liêng này.
( # )
17.
Họp, nhìn lại ảnh :
Ngày nay và mãi về sau, mỗi lần quây quần bên nhau, mỗi lần có dịp hẹn hò nhau
; những người đồng nghiệp, những người một thuở đem hết tâm huyết đưa từng con
chữ lên trang giấy, nhắc nhau để nhớ lại những năm tháng hào hùng. Thời gian đã
làm bạc màu tóc, nhưng tình đồng chí đồng nghiệp thì vẫn không phai lợt
và những kỷ niệm xưa lại trở về như in.
( # )
18. Về
rừng, xem ảnh :
Mỗi lần trở lại rừng xưa, những kỷ
niệm không phải vô cớ mà hiện về trong ký ức, bởi ở đó mỗi cuộc đời có một dấu
ấn riêng.
Những tấm ảnh đó có thể không còn sắc sảo, nhưng với chặng đời
trẻ trung, cuộc sống đầy lý tưởng ngày ấy sẽ còn mãi theo thời gian.
(Lời
ông Tuấn nói về lý tưởng công nhân đi suốt đời mình.)
19.
Tham quan các cơ sở in :
Và
đã có bao người như thế, để giữ gìn, để tiếp nối sự nghiệp vẻ vang này. Từ cái
nền của quá khứ, từ sự đào luyện của cuộc kháng chiến, từ thực tiễn của cuộc
sống miền Tây, những người từng theo ngành in xưa kia đã vươn tới, tiếp cận với
tấm mức mới của nền kinh tế.
Cùng nhau nhìn lại, cùng nhau chia xẻ
niềm khích lệ trước mỗi thành đạt mà con người của ngành in Tây Nam Bộ tiếp tục
giành được.
(Lời
ông Ba Bé về sự đóng góp của các đồng chí ở ngành in.)
20.
Hoạt động in hiện nay :
Rồi
những thế hệ công nhân mới của Xí nghiệp in Cần Thơ được đào tạo. Họ nối nghiệp
cha anh mà tiếp thu công nghệ mới. Họ tiếp cận với kỹ thuật hiện đại mà tạo ra
sản phẩm mới mang dấu ấn của sức vóc và trí tuệ.
(# )
Tất yếu, mọi cổ máy khi vận hành đều
cần đến sự kiểm soát và điều khiển của con người. Và ở Xí nghiệp in này, khi
được trang bị những dây chuyền công nghệ mới, nhân tố con người đã khai thác
hết công năng của máy móc đem lại hiệu quả kinh tế cho ngành in Cần Thơ. Điều
đó khẳng định thêm rằng, đứng trên cái nền của quá khứ, con người sẽ tiếp tục
giành được thắng lợi mới.
(Lời
ông Năm Bình về sự phát huy truyền thống.)
21. Dây
chuyền in báo :
Có
những di sản không thể cảm nhận bằng xúc giác mà chỉ có nhận thức mới tiếp cận
được với nó. Trước guồng máy này, nếu được nhìn với cặp mắt trọng quá khứ thì
nó chính là sự tích hợp của cả một quá trình, tiếp nối trong “dây chuyền”
truyền thống của ngành in.
(# )
Với hàng chục chủng loại ấn phẩm, hàng
trăm mặt hàng in chất lượng cao, cùng 5 tờ báo ngày, Xí nghiệp in Cần Thơ đang
thực sự vận động trong nền kinh tế năng động của Đất Nước.
Giữa không khí tất bật của nhịp sản
xuất hiện đại, chúng ta chợt nhớ kỷ niệm xưa ... Thuở ấy giữa bom đạn ác liệt,
những con người này đã vượt qua tất cả hiểm nguy gian khó để gầy dựng ngành in
của Miền Tây Nam Bộ, để hôm nay tự hào mà “ôn cố tri tân”. Những ký ức xưa càng
hiện về, càng làm tăng thêm niềm phấn khích của thế hệ đã một thời đem con chữ,
tờ báo, bản tin làm vũ khí giáng trả kẻ thù. Sức chiến đấu ấy, còn sống động
cho đến ngày nay, còn nguyên giá trị cho đến mai sau. Và thời gian, tiềm thức
sẽ trở thành kho báu của tri thức để chúng ta cùng khơi dậy những kỷ niệm hãy
còn hằn sâu như in./-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét