(Tạm thời chưa có phim)
LỜI BÌNH
LỜI BÌNH
1. Ngã ba sông, xóm bè, thu hoạch cá, cận cá : 34”
Trải
dài hơn 2.500km, dòng sông Mékong đổ về hạ nguồn như một tất yếu của lịch sử tự
nhiên. Trên phần lãnh thổ Việt Nam, Ngã ba sông Châu Đốc là nơi tụ hội của
nhiều loài thủy sản nước ngọt.
Hưởng
lộc trời phú đó, con người miền An Giang thông minh và cần mẫn đã đóng góp cho nền
văn minh sông nước Đồng bằng Nam bộ nhiều bước tiến lớn. Từ kinh nghiệm đánh
bắt hoang dã, sau mấy trăm năm họ đã tạo ra một nghề mới đậm nét nhân văn.
(Tựa phim)
2. Cô gái nhìn tượng đài, nhìn đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh ; sắc
phong, ông lão lạy, sông ruộng : 52”
Nhìn
lại lịch sử hình thành nghề cá, chúng ta cùng đến đầu nguồn, nơi Ngã ba sông
Châu Đốc, viếng thăm đình thần Nguyễn Hữu Cảnh, thành kính ngưỡng vọng vị
Chưởng cơ đã có công lớn trong việc đặt định cương vực, khai mở nghề nghiệp cho
lưu dân. Quốc sử quán triều Nguyễn chép rằng, năm Mậu Dần, 1698, nhà vua sai
Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất, đến đây giúp việc yên dân, đặt quan
cai quản và ra chiếu chỉ chiêu mộ điền tốt (tức người giỏi ruộng rẫy và chài lưới).
Dụ rằng : “Phàm, dân có biết nghề gì thì
chiêu tập họ về, cho tùy nghề mà làm. Người nào thiếu vốn thì được vay ;
truyền miễn thuế ba năm”.
( # nhạc )
3. Nước vận, lục bình chìm, ông già nhìn, nước chảy : 20”
Quy
luật dòng chảy và thời gian đã làm lắng kết những kinh nghiệm từ nhiều thế hệ
ngư dân. Ông Nguyễn Hữu Chỉnh là một trong những lão làng của nghề cá. Hơn 90
tuổi ông vẫn thuộc làu lời dạy của tổ nghiệp :
“Tháng năm
mùa nước quay về,
Tháng bảy
cá xuống, rớ, bè nổi lên.”
( # 5” nhạc )
4. Xúc cá, rộng cá, bè gỗ xưa, ảnh Châu Đốc : 57”
Kinh
nghiệm khai thác đã giúp cho dân chài biết cách rộng cá trong dòng nước chảy
nhằm lưu trữ nguồn thực phẩm tươi sống lâu ngày.
Với
phát hiện đó và sự chọn lọc kinh nghiệm từ các dân tộc anh em, ngư dân Châu Đốc
đã tạo ra những rộng cá lớn để nuôi các loài thủy sản.
Dùng
gỗ tạo ra khung sườn và đăng bao bọc, rộng cá được nâng lên nhờ hệ thống phao
tre nứa, gọi là “Bè cá”.
Bè
cá xuất hiện ở Ngã ba sông Châu Đốc vào những năm đầu thế kỷ 20. Các nhà nhiếp
ảnh Pháp đã ghi lại hình ảnh lịch sử này. Bến sông Châu Đốc lúc ấy hãy còn ít
bè cá, nhưng đã cho thấy manh nha một làng nghề.
Bây
giờ, với gần 4 ngàn bè cá, làng nghề nuôi cá ven sông đã tô điểm cảnh sắc cho
bức tranh đầu nguồn.
( # 7” nhạc )
5. Nước, bản đồ phát triển nghề nuôi cá, lục bình : 56”
Xuôi
dòng thời gian, từ cái nôi Châu Đốc, các làng cá bè nổi lên ở Đồng Tháp, Long
Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long ... Sự phát triển đó là quy luật, điều mà dân chài
xưa từng nói đến :
“Nước nổi,
trôi đám lục bình,
Sông đẻ ra
cá, người sanh ra làng.”
Rồi
các làng bè mới, những lớp người chủ mới ngày một nhiều thêm. Họ cần mẫn, siêng
năng, tiếp thụ những kinh nghiệm quý báu của tiền nhân mà lập nghiệp, nuôi chí
làm giàu.
Chủ
nhân của bè cá này khởi nghiệp ở độ tuổi “tam thập nhi lập” – Tuổi đời vững
vàng nhất để vào nghề.
Cứ
6 tháng, anh thu hoạch một kỳ. Liên tục như vậy, vòng quay của mùa vụ nâng dần
giá trị tài sản của ngư dân ; nhịp sản xuất cũng là nhịp sống của làng cá.
( # )
6. Ghe đi qua, nước vận, tàu ra xóm bè, bè mới : 47”
Theo
dòng Tiền Giang và Hậu Giang, chúng ta xuôi về hạ lưu của hai con sông hiền hòa
này. Phía xa kia là một làng bè mới ở ven sông Cổ Chiên.
Cổ
truyền, muốn đóng một bè mới, ngư dân lựa ngày lành tháng tốt để khởi công. Chủ
nhân Trần Văn Chiêu rước gánh thợ giỏi từ Châu Đốc, An Giang đến giúp. Họ là
những tay thợ có nhiều kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều thế hệ. Thợ cả là
người nắm vững nguyên tắc của xưa đúc kết :
Chắc ăn đinh
đóng chèo hai,
Cây vênh
chèn xéo, nại ngoài vô trong.
Dọc liền,
ngang thẳng, cao đồng,
Để khi hạ
thủy, bè không phập phều ...
( # 8” nhạc )
7. Nhà bè ông Tuồng, cá nhảy, tiếp khách, xem cá : 30”
Đến
với làng nghề Long Xuyên, chúng ta ghé thăm hộ nuôi cá da trơn Võ Văn Tuồng.
Gia đình ông có 5 thành viên, mỗi người đều có một công việc riêng với bè cá.
Là
chủ gia, ông Tuồng quán xuyến mọi việc, chiếc bè chính là căn hộ đáng yêu. Cuộc
sống của cả gia đình gắn chặt với nghề nuôi cá.
Riêng
với ông Tuồng, nết na của cá ba sa, tập tính của loài cá tra, ông đã thuộc lòng
từ lúc mới vào nghề.
(Lời ông Tuồng về sự gắn bó)
8. Bè ba chiếc, ông Tuồng viết, bảng theo dõi, cá ăn : 37”
Biết
chắt mót và cần mẫn, từ một bèlúc khởi nghiệp, chỉ sau mấy năm, ông Tuồng sắm
thêm được hai bè nữa. Với 3 bè đó, mỗi năm ông sản xuất hàng trăm tấn cá.
Một
trong những bí quyết dẫn đến thành công cho người nuôi cá là biết làm hạ giá
thành sản phẩm. Thực tế đã chỉ ra cho ông Tuồng những bài toán được chi tiết
hóa đến từng ngày. Số cộng đầu tư phải biến thành số nhân cho độ lớn của cá.
Nhưng, đối với ngư dân, nghề nuôi cá không chỉ là vấn đề lợi tức, mà ở đó còn
có một giá trị khác, về tinh thần cuộc sống.
(Lời ông Tuồng về cuộc sống trên bè và sự gắn bó với cá)
9. Người nhìn ra bè, kéo thùng bè bằng dây, làng bè rộng :
31”
Cuộc
sống của người nuôi cá ven sông có một sợi dây hữu hình mà cũng vô hình nối kết
giữa con người với thiên nhiên ; giữa sự năng động và tính thích nghi. Với họ,
không gian là không có khoảng cách ; chỉ có dòng chảy của nước và thời gian mới
là điều kiện để sinh sôi những làng bè.
( 10” nhạc )
10. Tư liệu bè xưa, ông Tư Đá nhìn, bè cũ, cối xay cải tiến,
ông Tư nhìn lại : 87”
Để
so sánh với hiện tại, chúng ta cùng ngược về quá khứ của những làng bè mấy mươi
năm trước. Thuở ấy, quy mô của những bè cá còn đơn giản, làng bè chỉ có vài
trăm chiếc tập trung ở ngã ba sông Châu Đốc. Bây giờ nhìn lại mới thấy rõ bước
phát triển nhanh chóng của nghề nuôi cá ven sông.
Các
bè hiện đại này là tài sản của ông Trần Văn Nhân, dân làng nghề thường gọi là
Tư Đá – Chủ nhân của 25 bè cá da trơn.
Như
để đánh dấu chặng đời nhiều năm theo nghiệp cá bè, ông giữ lại một bè cá kiểu
cũ làm kỷ vật, và nó vẫn còn hữu dụng ít ra là hàng chục năm nữa.
Cơ
giới hóa khâu tổng hợp thức ăn cho cá là một cải tiến lớn của ngư dân, trong đó
ông Tư Đá có nhiều đóng góp. Hệ thống nấu – trộn – nghiền mà ông chú tâm thiết
kế đã làm giảm đáng kể giá thành sản xuất.
Trước
kia mỗi bè cá phải tốn hàng chục công nhân. Mọi việc đều làm thủ công, khó có
thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất trên quy mô lớn. Sau nhiều năm hết bức xúc
lại nghiền ngẫm thể nghiệm, ông quyết định đầu tư để tạo ra hệ thống lò đốt
trấu, sử dụng cơ khí trộn thức ăn chín hỗn hợp cho cá. Công trình sáng tạo của
ông được phổ biến rộng khắp các làng bè.
(Ông Tư Đá nói về cách làm giảm giá thành)
11. Thu hoạch, chuyển đi, câu cá, sông : 45”
Giá
thành rẻ, chu kỳ sản xuất rút ngắn đã chứng minh thêm bản lĩnh sáng tạo của
người nuôi cá da trơn.
Thị
trường là động lực tất yếu thúc đẩy đến kết quả đó. Nhưng truyền thống và lịch
sử làng nghề còn khẳng định bằng yếu tố khác.
Dân
gian ở đây truyền miệng rằng :
“Cân kéo đổ nghiêng, kẻ siêng người biếng,
Ai lơi công giỏ
nhổng đầu khiêng,
Người nào đút cá ăn
tiền,
Nửa năm, chín tháng,
bè nghiêng của dồn.”
Lời
khuyến dụ đó đã làm nặng cân thêm cho loài cá da trơn của miền Châu Đốc – An
Giang.
( # nhạc 8” )
12. Xúc cá, lên xe, dở bao, cá dẫy dụa : 18”
Từ
các làng bè, tàu chuyên dùng vận chuyển cá tươi sống đến nhà máy chế biến. Nghề
nuôi cá ven sông trở thành công đoạn đầu trong guồng máy vận hành của hệ thống
sản xuất và chế biến thủy sản nước ngọt. Đây là chặng xuất phát trong cuộc hành
trình của loài cá da trơn.
( # 7” nhạc )
13. Công nhân chế biến, thau cá xoay, đăng quầng : 30”
Nguồn
cá nguyên liệu khi qua dây chuyền chế biến của nhà máy trở thành thương phẩm.
Vòng quay kinh tế lại tiếp tục xoay cùng độ phát triển của nghề nuôi cá ven
sông.
( # nhạc )
Hiểu
rõ tập tính của loài cá da trơn, nắm bắt quy luật dòng chảy của sông, ngư dân
sáng tạo ra cách nuôi mới, gọi là “đăng quầng”.
Đăng
quầng là cách nuôi dùng lưới bao bọc một khu đất ngập nước ven sông, hoặc trên
ruộng, vào mùa nước nổi. Cách nuôi này đầu tư rất thấp mà hiệu quả kinh tế cao.
Ven sông Cửu Long, từ đầu nguồn đến các cù lao, cồn bãi, hầu như nơi nào cũng
có thể ứng dụng nuôi cá da trơn theo phương pháp đăng quầng.
Bài
toán của ngư dân cho thấy, mỗi hecta mặt nước đăng quầng, vốn đầu tư ban đầu
chỉ khoảng 60 triệu đồng, gồm chi phí vét bùn và cặm tre, giăng lưới.
Nghề
nuôi cá ven sông tạo thêm một dáng vấp mới cho nền văn hóa miền sông nước.
( # 6” nhạc )
14. Hoang hóa, giăng lưới, ao cá xưa, ao mới : 85”
Ở
những nơi luồng gió phát triển ngư nghiệp chưa thổi tới, nhiều thửa đất ven
sông vẫn còn chịu cảnh hoang hóa. Dưới mặt đất ngập nước, các loài thủy sản tự
nhiên không còn phong phú như xưa, do nạn đánh bắt bừa bãi. Trước thực trạng
này người dân chỉ có hai cách lựa chọn, hoặc bắt hết những đàn cá cuối cùng ;
hoặc biến đầm hoang thành ao nuôi cá thâm canh. Thật đáng mừng, mấy năm qua đã
có hàng ngàn hộ nông dân chọn cách thứ hai.
( # 9” nhạc )
Nhớ
lại, nghề nuôi cá ven sông từ những năm 80 phổ biến là dụ cá thiên nhiên, chỉ
phù hợp với nền kinh tế tự cấp, tự túc.
Ngày
nay, trên những thửa đất tương tự, ngư dân đã lập nhiều trại cá với quy mô lớn.
Dựa
vào quy luật bán nhật triều, mỗi ngày có hai con nước lớn ròng, ngư dân đào ao
ngay sát bờ sông, nuôi cá da trơn.
Ông
Nguyễn Văn Sự chủ trại cá của hệ thống ao 6.000m2 . Nhờ áp dụng thủy
triều, ông đã có thể nuôi với mật độ 150
con/m3 mà nước ao vẫn luôn luôn sạch, chất lượng cá đạt tiêu chuẩn
xuất khẩu – Nguồn nước sông được sử dụng đúng cách để làm giàu.
(Lời ông Sự về cách xả, lấy nước)
15. Cắt rau, cá ăn, cho thức ăn vào cối, cá ăn : 32”
Nguồn
nước sạch giúp cho rau xanh tươi tốt.
Chúng là một trong các thành phần quan trọng của mồi cá nuôi. Dân gian từng đúc
kết :
“Năm bó rau
tươi trộn mười cân cám,
Nấu cho nhừ cá mới phàm ăn,
Nhồi viên một bữa hai lần,
Vênh râu cá đớp mười phần lớn mau”
( # nhạc 10” )
16. Sông nước ròng, lục bình, lia vào ao : 24”
Việc
ứng dụng thủy triều để sản xuất đã được ghi chép trong lịch sử văn minh miệt
vườn Nam bộ.
Từ
cuối thế kỷ 17, lưu dân khẩn hoang đã biết đào mương, đắp bờ cao trồng vườn,
lấy ao sâu nuôi cá.
Phải
chăng đó là nền tảng, là truyền thống để ngày nay thế hệ mới biết tính toán làm
ăn trên quy mô lớn hơn.
(Lời ông Hồng về đầu tư làm ao so với đầu tư làm bè)
17. Vườn ao, cá ục, các chòi du lịch, chiều : 35”
Nhạy
bén trước nhu cầu mới của nền kinh tế hội nhập, ngư dân nhiều nơi đã xây dựng
khu nuôi cá thành điểm tham quan, du lịch sinh thái. Nhờ vậy, không những tần
suất sử dụng mặt bằng được khai thác triệt để, thu nhập tăng lên, mà còn góp
phần thiết thực bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
( # 10” nhạc )
18. Hoàng hôn, đèn đêm Châu Đốc, trẻ học, đốt nhang, các bậc
tiền bối : 45”
Chiều
xuống, đêm trở về với làng nghề nuôi cá ven sông ...
“Đèn
nào cao bằng đèn Châu Đốc ...” Câu ca xưa gợi lại biết bao điều cho cuộc sống
thời nay. Thế hệ mới sinh ra và lớn lên từ làng bè sẽ lại tiếp tục dở những
trang đời mới từ bề dày kinh nghiệm, từ giá trị sáng tạo của cha ông.
( # 2” )
Nhiều
bè cá có lịch sử riêng, và đây là căn hộ có 3 đời gắn bó với nghề này.
Ông
Phạm Văn Quý lập nghiệp từ đầu thế kỷ 20. Con là Phạm Văn Nhựt, tiếp nối, và
cháu nội Phạm Văn Dũng là người kế tục
...
( # 10” nhạc )
Đêm
của làng bè yên ả mà cũng rộn ràng. Đàn cá đòi ăn lúc giữa khuya người chủ phải
thức giấc. Lao động nghề cá cứ như thế tạo ra nhịp sống. Hết mùa này lại đến vụ
khác, kế tiếp nhau mãi.
( # 10” nhạc )
No
bữa, đàn cá lặn sâu khi ngày mới vừa đến.
Sông vàng
nhuộm ánh bình minh
Cá bạc ẩn
sắc, náu mình, dòng trôi ...
( # 8”nhạc )
19. Các lớp nhà trong nắng sớm. Nhà có hoa : 30’
Ngã
ba sông Châu Đốc càng lúc càng rộng ra, như thể mở thêm cánh tay hiền hòa, ôm
trọn làng bè đang ngày một thêm đông đúc.
Hơn
ba ngàn chiếc bè kết nối lại thành làng nổi, thể hiện sức sống bền bỉ của con
người, sự bao dung, phóng khoáng của dòng sông.
Nhưng,
lắm lúc sông chẳng bình yên. Thế kỷ trước Phan Văn Trị đến đây từng thốt lên
rằng :
Bảy Núi mây liền chim nhíp cánh,
Ba Dòng nước chảy cá vênh râu.
Ngư
dân đã bao phen đấu tranh với thiên tai và cả nhân họa. Hình ảnh này gợi lại
cho chúng ta nhớ lại những năm giống cá da trơn khan hiếm do người dân khai
thác một cách vô tội vạ, dẫn đến tình trạng nguồn giống tự nhiên ngày một cạn
kiệt, gây hệ lụy đến nghề nuôi cá ven sông.
20. Cào cá, đổ đục cá, đổ vào sô, ảnh làm giống : 39”
Loài
cá da trơn có tập tính sinh sản khá đặc biệt. Chúng đẻ ở vùng hạ Lào trên sông
Mêkông. Cá con theo dòng chảy xuống vùng này và lớn lên đến độ vừa nuôi.
Phải
mất một thời gian dài người dân mới hiểu được quy luật ấy nên đã vô tình làm
thiệt hại nguồn giống. Cá con non yếu không thể tồn tại trong cách đánh bắt như
vậy.
May
mắn thay, vào thập niên 80 của thế kỷ hai mươi, các nhà khoa học ở An Giang đã
thiết lập được quy trình sinh sản nhân tạo loài cá da trơn.
Xem
ra, chỉ có mấy công đoạn đơn giản mà con người phải mất nhiều thế kỷ mới tạo
được nguồn giống chủ động như thế. Tiến bộ của khoa học đã được chuyển giao đến
ngư dân để ứng dụng rộng rãi.
(Lời ông Kỹ sư Vinh về sản xuất giống)
21. Chở cá giống, cá ăn, hội nghị nghề cá, sông : 47”
Như
vậy, ngư dân được thừa hưởng cùng lúc ba điều lợi : chủ động nguồn giống để sản
xuất trên quy mô lớn, bảo vệ môi trường tự nhiên và hạ giá thành sản phẩm.
Nhiều
ngư dân tháo vát lập trại cá giống, tiếp cận nhanh với quy trình công nghệ sinh
sản loài cá da trơn, đáp ứng nhu cầu thị trường đang ngày càng gia tăng. Sự
năng động ấy tạo công ăn việc làm cho nhiều hộ nông dân ; giúp sức cho ngành
ngư nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long phát triển.
Trước
những thử thách mới, ngư dân cần có sự hợp lực mới để tăng cường sức mạnh cạnh
tranh. Hội nghề cá ra đời nhằm khai thác khả năng đó và tạo điều kiện thuận lợi
cho người làm nghề cá sản xuất, kinh doanh.
Các
câu lạc bộ 10 ngàn tấn, 15 ngàn tấn, 20 ngàn tấn hoạt động từ nhiều năm qua là
nền tảng cho hội nghề cá hình thành.
(Lời ông Tuồng về lợi ích gia nhập CLB nghề cá)
22. Cá ục, bè cũ bè mới, bè xưa, Tây xem : 1’45”
Như
cá cần có không khí để ngóp, cần có nước để vẫy vùng, ngư dân thời hiện đại cần
đến sự phát triển cân xứng với năng lực sản xuất vốn có của mình. Con cháu
người làm nghề cá khi ra riêng cần được hưởng quyền bình đẳng như một thành
viên của làng bè. Thực tiễn đó là nhịp sống vừa trầm lặng vừa sôi động diễn ra
từng ngày.
Ngược
dòng thời gian, từ những chiếc bè đơn giản thời xa xưa, người làm nghề cá ven
sông đã vượt lên những chặng khá dài đúc kết những kinh nghiệm và phát huy sáng tạo của cha ông, đưa
làng nghề xứng đáng với tầm vóc mới trong thời kỳ công nghiệp hóa.
( # )
Trong
bối cảnh hội nhập, ý nghĩa nhân văn của truyền thống nghề cá đã tôn thêm giá
trị của thương phẩm thủy sản.
Trong
ánh mắt của người ngoại quốc, rõ ràng loài cá da trơn đã lớn lên bằng độ tinh
khiết của sông nước, của bàn tay cần cù người Việt Nam.
Giờ
đây, họ đang được hiểu thêm, loài cá ấy còn được nuôi nấng bằng cả một nền văn
hóa lâu đời. Trong đó có truyền thống hiếu khách và trọng danh dự ...
( # 10’ nhạc )
23. Nước vận, bến XN, lóc phi lê, các chế phẩm : 72”
Xuôi
theo dòng chảy của sông Cửu Long, loài cá da trơn từ các làng nghề tiếp tục
cuộc hành trình vào nhà máy, hóa thân thành nhiều sản phẩm xuất khẩu, làm giàu
cho nền kinh tế Đất Nước.
Từ
chỗ chưa một quốc gia nào biết đến, bây giờ loài cá da trơn Việt Nam đã có
thương hiệu Basafish, Trafish ở thương trường quốc tế.
Rồi
cũng từ loài cá này, gần 50 loại sản phẩm khác được chế biến theo khẩu vị người
Á Đông.
Cá
đã nằm trên thớt thì không còn tung hoành, vùng vẫy. Nhưng, những người chủ của
nó đã vạch sẵn một đường đi mà đích đến của chúng là nhiều địa chỉ, nhiều đối
tác khác nhau. Sứ mệnh của loài cá da trơn còn được khẳng định khi ngành chế
biến tạo ra nhiều sản phẩm thích hợp tâm lý người tiêu dùng. Hình bóng của
loài cá đặc sản đã khơi gợi hương vị quê
nhà ; giữ đậm sắc thái của nền văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Nghề
cá bây giờ gồm chung cả nhà chế biến lẫn người nuôi. Mỗi sản phẩm là sự tích
hợp của tâm huyết ; của chí làm giàu ; của tính sáng tạo và niềm yêu lao động.
(Lời ông Tư Đá về quyết tâm sản xuất)
24. Ông Tư đánh máy toán, nhìn ra cửa sổ, đình làng, thu
hoạch, nhìn tượng đài : 1’15”
Với
số vốn nhiều tỷ đồng tích lũy được từ nguồn sản xuất cá da trơn, ông Tư Đá là
một trong số ngư dân thành đạt. Sau lưng ông là bề dày kỳ tích, trước mặt ông
là tương lai của nghề cá – cái nghề mà ông và hàng chục ngàn đồng nghiệp đeo
đuổi suốt bấy lâu.
Cảm
ơn các bậc tiền nhân đã một thuở chiêu mộ hiền tài, khởi nghiệp cho lương dân.
Từ
cánh cổng mở toang của quá khứ, chúng ta nhìn thấu đến hiện tại và lấy đó làm
thước đo cho độ sâu lịch sử nghề cá ven sông.
Loài cá giúp ích cho ngư dân miền đất này suốt mấy
thế kỷ, bây giờ lại tiếp tục làm giàu cho Đất Nước. Công lao đó hẳn đáng được
tôn vinh theo đạo lý truyền thống của dân tộc.
Và
đây, loài cá da trơn lại được hóa thân
từ bàn tay nghệ sĩ. Ông muốn gởi gắm niềm tôn vinh ấy đến con người – Những thế
hệ ngư dân kế tục nhau lao động và đấu tranh để bảo tồn, phát triển nghề nuôi
cá ven sông – Nét nhân văn biểu hiện sâu sắc trong dòng chảy của lịch sử Đất
Nước./-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét