Phim tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1998.
Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016
ĐỘI NỮ PHÁO BINH CÁI NƯỚC
Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016
PHAN NGỌC HIỂN - SÁNG NGỜI TÊN ANH
Phim tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1999.
Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016
NGẮM MƯA
Ngồi buồn ngắm cảnh mưa rơi
Soi mình trong hột nước trời
tưởng mơ…
Ngày xưa hỏi mẹ tắm mưa
Rửa thời thơ ấu, như vừa
chiêm bao…
Giọt mưa đo được trời cao
Sao về đất thấp rót bao lạnh
lùng ?!
Nhớ xưa theo mẹ ra đồng
Hái rau bắt ốc vui cùng cỏ
hoa
Bửa cơm dưa muối, tương, cà
Cả nhà đầm ấm, mẹ già cười
vui!…
Ngắm mưa dạ bỗng bùi ngùi
Ngày xưa bóng mẹ, nay lùi
vắng xa…
Giữa lòng phố thị phù hoa
Người dưng nước lã, ruột rà
lạt phai
Trời mưa có giọt vắn dài
Lấy gì đo được tình ai thấm
tràn?
Ngắm mưa lòng tủi xốn xang
Rưng rưng tí tách, đếm ngàn
giọt rơi
Ầu ơ… tiếng mẹ đâu rồi
Để bong bóng nhỏ bồi hồi trôi
ngang?
Gió chiều lất phất bông trang
Mây giăng trắng mộ, nhớ càng
thêm đau…
Nỗi buồn thấu tận trời cao
Rót từng hột nặng, xói vào
lòng ta…
Mẹ ơi, mỗi giọt mưa già,
Tưới vào hồn trẻ như là chiêm
bao!
Một ngày mưa nhớ mẹ - 2003
NGUYỄN TRUNG HIẾU
TRƯỜNG HỌC KHÁNG CHIẾN
Trích
đoạn hồi ký, còn ở dạng sơ thảo
… Ba năm làm nghề
điện báo viên minh ngữ ở cơ quan Phân xã TTX miền Tây Nam bộ (1969 -1971), công
việc chuyên môn đã tạo điều kiện để tôi tiếp cận các nguồn thông tin từ các hãng
thông tấn lớn như AFP, UPI, BBC, USIS, v v… Ngoài các bản tin chữ rõ bằng tín
hiệu morse, tôi còn được biết thêm nội dung các bản tin tiếng Pháp và tiếng Anh
do một số anh chị từ thành thị vào chiến khu công tác. Trong số đó có anh Bảy
Tú, gốc là điện báo viên Bưu điện Sài Gòn rất giỏi tiếng Pháp. Thấy tôi trẻ và
ham học, anh khuyên tôi nên học tiếng Pháp và hứa sẽ giúp, nhưng ráng nhờ người
mua sách ở vùng thành thị mang vô. Sách phù hợp nhất với tôi lúc bấy giờ là bộ 3
quyển “Cour de Lange et de Civilisation Francaises” (Ngôn ngữ và Văn minh Pháp)
của Q.Mauger. Nhờ người “móc nối”, tháng 3 năm 1970, chị tôi ở Cần Thơ gủi cho
trọn bộ sách này cùng với cuốn từ điển loại bỏ túi nữa.
Có
thầy (anh Bảy Tú) và có sách (Cour de Lange) tôi quọp quẹp học tiếng Pháp theo
kiểu “bình dân học vụ”. Lần đầu học ngoại ngữ thật lúng túng, nhất là phát âm
và cách chia động từ. Phải luyện nói âm “r” bằng cái lưỡi nhỏ hết sức tinh tế.
Vậy mà chỉ mấy tháng sau tôi đã đọc khá ổn, biết viết thành câu và tra từ điển.
Nhưng ở đời không có chuyện gì là không thể xảy ra. Việc học tiếng Pháp của tôi
bị chỉ trích dữ dội. Người trẻ thì bỉu môi cho là học tiếng Tây chỉ để lập dị,
còn người già thì bảo lo kháng chiến đi, hòa bình rồi sẽ học đàng hoàng hơn.
Tôi bình thản, cứ mày mò mà học ban đêm trong mùng với cái đèn dầu làm bằng
bình mực Pilot. Một ngày tháng mười 1970, trong một dịp uống trà với chú Hai Quỳnh,
nhân lúc vui tôi hỏi chú câu tiếng Pháp: “La
Culture, c’est ce qui reste quand on tout oublié, c’est ce qui manque quand on
de tout appris” là của ai. Chú Hai hơi ngạc nhiên, hỏi lại tôi của ai vậy, cháu
lấy ở đâu ra. Tôi thành thật, đây là câu nói nổi tiếng của Nhà văn hóa, Viện sĩ
hàn lâm Pháp, ông Esdouard Herriot, và dịch nghĩa luôn: “Văn hóa là cái còn lại khi ta đã quên tất cả, là cái còn thiếu khi ta
đã học tất cả ” Cháu mới học trong cuốn từ điển “Lusenair de La rouse”. Chú
Hai Quỳnh khen tôi học nhanh quá. Cũng trong tháng mười năm đó, buổi tối rảnh
rang các bạn trẻ trong cơ quan thông tấn xã thường xúm lại chơi đánh bài hòa
bình (tu-lơ-khơ). Vừa chia bài xong là có tiếng máy bay. Mọi người nhanh chóng
tắt ngay cây đèn dầu. Tôi nói có gì đâu mà sợ, chiếc máy bay này nó bay để phát
sóng truyền hình thôi. Có bạn không tin, nói tụi nó đang nhổ cỏ U Minh đừng có
giỡn, nó cho một trái xuống là đi đời hết. Tôi bình thản lấy sách ra giải
thích, đây nè, bên Paris người ta phát sóng bằng cái trụ này nè, Lúc đầu ông
Effel làm cái tháp này để leo lên ngắm cảnh, về sau, khi có truyền hình người
ta mới dùng độ cao 333 mét của nó để phát sóng, vì sóng truyền hình nó đi thẳng như ánh sáng. Mọi người trố mắt
nhìn tôi cười.
… Đối phương
đánh phá U Minh ác liệt , cơ quan tôi phải di dời liên tục, sách học tiếng Pháp
của tôi mấy lần bị ướt, phải phơi đi phơi lại nhiều lần. Tôi nghĩ ra cách tìm bọc
cao su gói chất nổ của mấy đơn vị bộ đội rồi dùng mỏ hàn ép lại để trong ba lô,
đi đâu là mang theo như vật bất ly thân.
Sang năm 1971,
tôi gủi thư nhờ người chị ở Cần Thơ mua giúp sách kỹ thuật truyền hình, sách làm
người, sách triết học phương Tây, các tác phẩm văn học Nga, Pháp, Mỹ và sách vật
lý lớp 11, 12. Chị tôi gỏi vô cho cuốn “Vô
tuyến truyền hình?... Ồ! Thật là giản dị” của E. Aisberg, “Đắc nhân tâm” của Dale Carnegie do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch
thuật, “Chiến tranh và hòa bình” của Léon Tonstoi, “Buồn ơi, chào mi” của Francoise
Sagan, “Kẻ xa lạ” (L’Etranger), “Dịch hạch” (La Peste) của Albert Camus, “Ngư
ông và biển cả”, “Chuông nguyện hồn ai” của Ernest Hemingway do Nhà xuất bản Lá Bối - Sài Gòn ấn hành.
Trong chòi làm việc luôn luôn giăng mùng vì muỗi quá nhiều. Hễ hết giờ lên sóng
là tôi đọc ngấu đọc nghiến mấy cuốn sách này. Cảm thấy chưa đủ, tôi còn mượn ở
Thư viện Ban Tuyên huấn Khu cuốn “Tư bản luận” của Karmax, cuốn “Hiến pháp Mỹ” của
Nhà xuất bản Sự Thật để tìm hiểu thêm. Sách nhiều, phải gói kỹ rồi cho vào
thùng đạn lớn, đem chôn giấu ở Đê Cơi Năm, khi nào yên tĩnh thì đem lên đọc.
… Năm 1973. Thấy
tướng tá cao ráo, kiến thức kha khá, tôi được chọn sang Phòng Điện ảnh TNB để bổ
sung cho lực lượng quay phim. Tổng tấn công Tết Mậu Thân, đơn vị này hy sinh
hơn 10 anh chị. Tôi vào và được phân công ra chiến trường ngay với nhiệm vụ phụ
quay phim. Tôi vừa theo đội quay vừa học nghề lóm. Mượn mấy cuốn sổ tay của mấy
anh đem chép lại, không hiểu thì hỏi thêm. Tôi nắm bắt khá nhanh về kỹ thuật,
biết “nhắm chừng” độ sáng khá chính xác nên không cần dùng máy đo. Tôi học có
tính rời rạc, khi thì nói về bố cục trong buổi uống trà, lúc thì nói động tác
máy khi ngồi tán gẫu. Vốn hay tổng kết, rút tỉa, dần dần tôi ghi chép thành hệ
thống nhận thức riêng, để nhận biết chính xác thế nào là lia, thế nào là fix,
thế nào là travelling.
…Tại chiến trường
trọng điểm Vĩnh Trà, trên vai tôi mang chiếc ba lô gồm có 3 lớp: Lớp sách vở,
lóp phim quay và lớp quần áo, bên hông có cái túi nhỏ để vừa cái radio hiệu National
của Nhật. Như vậy là tôi có đủ phương tiện để học tập, thông tin và giải trí.
Có lần tôi đi cùng đội với Trần Chí Kông thực hiện phóng sự “Trồng dưa trên động
cát” ở ấp Bến Đáy, xã Mỹ Long, huyện Cầu Ngang, làm quen với em Trường, một học
sinh đang học ở thị trấn. Tôi nhờ em ra chợ mua giùm mấy quyển sách lúc đó rất
được độc giả quan tâm. Đó là “Tình em vỗ cánh” và “Câu chuyện dòng sông” của nhà
văn Đức Hermann Hesse, “Xương trắng Trường Sơn” và “Đường đi không đến” của nhà
văn chiêu hồi Xuân Vũ. Đọc và suy nghĩ thời cuộc lúc đó, và cũng là dự đoán xu
hướng của xã hội mà đối phương đang kiểm soát ra sao. Trong thời gian hoạt động
ở địa bàn này, tôi và Tràn Chí Kông hay lân la ra vùng ven. Một hôm làm quen được
mấy vị sư sãi, chúng tôi xin được vào viếng chùa. Mấy vị sư sãi vui vẻ, hẹn chiều
sau buổi cầu kinh cứ vô chơi, coi truyền hình rồi tối về. Tối hôm đó tụi tôi lẻn
vô chùa uống trà với mấy vị sư sãi và xem truyền hình, chương trình của Đài Cần
Thơ. Đọc cuốn “Vô tuyến truyền hình?... Ồ! Thật là giản dị” mấy năm trước, tôi
chỉ coi ảnh thôi. Còn bây giờ thì mắt thấy tai nghe thật sự. Lần đầu tiên xem truyển
hình và Trần Chí Kông hồi hộp lắm. Kông nhìn cô phát thanh viên trẻ và xinh xắn
vẻ rất khoái chí, chắc lưỡi trầm trồ hoài. Giải phóng, tiếp quản tôi và Kông gặp
cô phát thanh viên này mới biết tên là Việt Hưng. Tôi chào cô ấy bằng câu: “Văn
kỳ thinh bất kiến kỳ hình, rất hân hạnh được làm quen!”
Coi đi coi lại,
trong số mấy anh em Phòng Điện ảnh Khu TNB, tôi là người tìm hiểu truyền hình sớm
nhất, từ sách vở tới thực tế.
… Một kỷ niệm
khó quên, vào một ngày của tuần lễ đầu tiên sau ngày giải phóng, tôi là một
thành viên của đoàn công tác “Quét sạch tàn dư văn hóa đồi trụy” thuộc Ban quân
quản thành phố Cần Thơ. Mọi người lôi ra từ Phòng Thông tin Viêt-Mỹ rất nhiều
sách tiếng Anh, chất thành đống, sửa soạn đốt bỏ. Tôi liếc ngang thấy một cuốn
bìa dày có in đậm một dòng chữ “The Impact of
Film”. Tuy chưa học tiếng Anh, nhưng với vốn tiếng Pháp ít ỏi của mình,
tôi cũng đoán được đó là sách về điện ảnh hay truyền hình, Cầm lên rồi mở ra
xem sơ qua, tôi trình với chú Tư Lôi, tổ trưởng công tác tiêu hủy, cho tôi xin
về gói đồ, giấy tốt quá, Chú Tư gật đầu, tôi liền bỏ túi gọn khô. Hôm sau gặp
được anh Lưu Danh Gi, một kỹ thuật viên lưu dụng của Đài, người biết rành tiếng
Anh, tôi hỏi cuốn sách này nói gì, anh nói, cuốn sách này hay lắm. Nó đúc kết
toàn bộ kiến thức về điện ảnh và truyền hình. Thấy tôi ham học, anh Gi còn tặng
tôi một cuốn từ điển chuyên môn truyền hình để dem về tra cứu. Làm việc ở đài
được ít lâu, tôi xin lên Sài Gòn học văn hóa.
….Cuốn sách “The
Impact of Film” tôi mang theo với niềm mong có cơ hội dịch ra tiếng Việt để
nghiên cứu. May thay, trong năm đầu học Đại học Tổng hơp TPHCM, tôi vào ra ký
túc xá, làm quen với bạn Thảo, đang học khoa tiếng Anh năm thứ hai. Tôi nhờ bạn
dịch thử vài chương thiết yếu là: Phim và khán giả, Ngôn ngữ hình, Thủ pháp dựng,
Phim tài liệu cổ điển và phim tài liệu truyền hình. Có trong tay bản dịch này,
về cơ quan cũ là Đài truyền hình Cần Thơ, giao lại cho Trần Chí Kông, lúc đó là
Quản đốc Xưởng phim tài liệu, in ronéo cho bạn bè cùng đọc. Có thể nói, quyển
sách này đã làm sáng tỏ biết bao điều về nghề nghiệp mà mình còn rất mập mờ. Nó
lấp những lỗ hổng kiến thức do các tài liệu của Liên Xô, Trung Quốc trước đó phổ
biến.
….Năm 1985, Ủy
ban Phát thanh - Truyền hình nước ta mời Học viện Phát triển Phát thanh – Truyền
hình Châu Á – Thái Bình Dương (AIBD) và Học viện Truyền hình quốc gia Pháp
(INA) sang giảng dạy. Tôi được cử đi học. Thêm một cơ hội nữa để tôi hệ thống,
đúc kết toàn bộ vốn kiến thức nghề ngiệp của mình, viết tài liệu hướng dẫn và tập
huấn cho đồng nghiệp. Đây cũng là cơ sở để tôi tác nghiệp nhiều năm sau này.
(…)
NGUYỄN TRUNG HIẾU
Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2016
TÔ DỰ - NGƯỜI HỌA SĨ CỦA ĐẤT TÂY ĐÔ
Phim tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1998.
Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016
NHÀ BÁO NGUYỄN MAI
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1998.
NHÀ QUAY PHIM CHÂU NGỌC TIẾP
Phim
tài liệu thực hiện tại Trung tâm Truyền hình VN tại TP Cần Thơ, công chiếu năm 2005.
LỜI BÌNH
1.-Ông
Bảy ở kho phim, dở hộp ra xem: 32”
Theo
nghề nhiếp ảnh từ những năm 50, năm 1962 ông chuyển sang nghề quay phim. Trong
30 năm cầm máy ông đã lăn lộn ở hầu khắp các chiến trường miền Tây Nam bộ. Hàng
ngàn thước phim ông ghi chép trong thời chống Mỹ đã đóng góp những giá trị to
lớn về hình ảnh Cách mạng của vùng đất này.
Bạn
bè gọi ông là Bảy Triển, đồng nghiệp gọi ông là đạo diễn Lê Châu, là nhà quay
phim Châu Ngọc Tiếp.
(Tựa
phim )
2.
Ông Bảy lấy phim xem qua lúp: 22”
Xưa
nay, những người làm phim thường hay nói: “Không có ánh sáng thì không thể có
Điện Ảnh”; Ông cũng hay tâm tình với đồng nghiệp: “Người quay phim không có bầu
nhiệt huyết thì không thể ghi chép tốt cuộc sống”. Nghĩ vậy nên ông đã gửi trọn
lòng tin và trách nhiệm vô mỗi cảnh quay; coi đó là sự nghiệp của cả đời mình.
(#)
3.
Ông Bảy ngồi trên vỏ, nhìn: 24”
Nhà
quay phim Châu Ngọc Tiếp sinh năm 1929 tại làng Hưng Mỹ, một làng quê nên thơ
và trù phú thuộc quận Cái Nước, cách thị xã Cà Mau không xa. Khoảng đời niên
thiếu của ông gắn liền với dòng sông, con rạch của xứ sở thân yêu này.
(# nhạc)
4.
Rót rượu, cắm nhang: 23”
Mỗi
lần về lại quê nhà là một lần gợi lại trong ông biết bao kỷ niệm về gia tộc,
gia đình. Cội nguồn tạo nên lẽ sống; điểm khởi đầu của sự nghiệp và mọi thành
công của đời ông sau này.
(#)
5.
Xá bàn thờ, ảnh thân sinh; thăm mộ: 31”
Sinh
ra trong một gia đình có truyền thống văn hóa và yêu nước, ngay từ buổi thiếu
thời nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp luôn được cha mẹ hun đúc lòng say mê nghệ
thuật và ý chí đấu tranh. Từ đó hình thành nơi ông niềm yêu ghét rạch ròi,
chuộng lẽ công bằng thẳng ngay, sẵn sàng xả thân vì nghiệp lớn.
Vậy
rồi, năm ông tròn 16 tuổi, Cách mạng Tháng Tám bùng lên. Cuộc kháng chiến vang
rền trên quê hương Hưng Mỹ của ông …
(#)
6.
Ảnh cầm gậy, ảnh Cà Mau 1945, mít-tinh, xem:
Cuộc
tổng khởi nghĩa đã đưa Châu Ngọc Tiếp vào kháng chiến và ông trở thành Thanh
Niên Tiền Phong với nhiệm vụ tuyên truyền ở địa phương. Ngày 6-1-1948, ông vinh
dự được kết nạp vào Đảng. Ngay sau đó ông được giao nhiệm vụ Trưởng Thông tin
tuyên truyền xã Thới Bình, quận Cà Mau. Trong thời gian này ông có cơ may làm
quen với nghề nhiếp ảnh. Đến 1950 ông chụp được những bức ảnh đầu tay.
Sau
Hiệp định Genève, ông được Tỉnh ủy Bạc Liêu giao nhiệm vụ nhân ảnh Bác Hồ phục
vụ công tác tuyên truyền, gầy dựng cơ sở trong vùng địch tạm chiếm.
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ lại đưa ông vào giai đoạn mới với nghề quay phim. Năm
1962, do nhu cầu công tác tuyên truyền, Ban Tuyên huấn Khu ủy Tây Nam bộ chọn
ông và Trần Thanh Hùng lên Trung ương Cục miền Nam học nghề quay phim.
(Lời kể của Trần Thanh Hùng về sự nguy
hiểm trên đường đi)
7.
Ghe máy chạy, xưởng phim giải phóng; máy quay: 41”
(# nhạc)
Sau
hàng tháng trời lặn lội, vượt qua bao hiểm nguy, cuối cùng hai học viên của
miền Tây cũng đã đến miền Đông Nam bộ. Tại đây việc học được bắt đầu bằng sự
tiếp cận với ngôn ngữ hình ảnh, cách quay cho đến việc thực hiện các công đoạn
sản xuất thủ công phim thời sự. Một năm sau, hai học viên Châu Ngọc Tiếp và
Trần Thanh Hùng tốt nghiệp, nhận máy quay và phim mang về miền Tây Nam bộ.
(Lời ông Thanh Hùng kể về việc mang máy
về lập xưởng phim)
8.
Ông Bảy xem ảnh, trích phim Gò Quao: 22”
Cùng
với đạo diễn Trần Nhu, nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp đã bắt tay chuẩn bị thành
lập Xưởng phim Giải Phóng miền Tây Nam bộ.
Đầu
năm 1964, Quân khu 9 đã thành lập các đơn vị chủ lực. Trận đánh Gò Quao diễn
ra, nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp, tức Lê Châu và quay phim Thanh Hùng có mặt
tại trận địa.
(Lời ông Châu Ngọc Tiếp và Thanh Hùng về
trận đánh thắng)
9.
Đào công sự, bắn, xông lên, bắt Mỹ: 46”
Và
đây là những thước phim đầu tiên của nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp, ống kính của
ông hướng về những con người cụ thể, miêu tả chân thật hình ảnh quân giải phóng
hiên ngang và dũng cảm. Rồi ông sẵn sàng xả thân, lao vào trận địa, xông lên
cùng các chiến sĩ, ghi chép một cách sinh động trận đánh mang tính quyết định
này.
Ngay
lần quay đầu tiên, ông không những gan dạ giữa bom đạn, mà còn tỏ rỏ bản lĩnh
của một nhà quay phim chuyên nghiệp, không bỏ sót một chi tiết nào. Và ông đã
thắng cùng với trận thắng lớn Gò Quao.
(#)
10.
Xem ảnh, máy quay: 29”
(# nhạc)
Với
một nhà quay phim, chiếc máy quay bao giờ cũng là “vật bất ly thân” trong suốt
cuộc đời hoạt động nghề nghiệp của mình. Ông không thể nào quên những năm bằng
tay không và lòng nhiệt huyết, ông và đồng nghiệp đã dựng nên Xưởng phim giải phóng
miền Tây Nam bộ.
(Lời ông Châu Ngọc Tiếp về sự thành lập
và nhiệm vụ chính trị)
11.
Trích tư liệu “Bao vây Đầm Dơi”, “Lửa trong rừng”: 59”
Nhận
nhiệm vụ, nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp đã cùng đồng nghiệp thực hiện những
phóng sự điện ảnh đầy sức sống. Đây là trích đoạn phim “Xiết chặt vòng vây diệt
địch”, phản ánh phong trào chiến tranh nhân dân bao vây Chi khu Đầm Dơi thuộc
tỉnh Cà Mau. Và đây nữa, một trích đoạn phim tài liệu “Lửa trong rừng” miêu tả
xưởng quân giới miền Tây Nam bộ đã vượt qua bao khó khăn để chế tạo vũ khí, góp
phần vào thắng lợi của chiến trường chung.
Ống
kính của ông không chỉ có tả thực những con người bình thường vừa mới buông cày
cuốc đã nắm chắc máy móc, tạo nên những quả đạn đúng chuẩn phục vụ chiến
trường.
(#)
12.
Miền Tây vào Tổng tiến công, các người thực hiện, bộ đội vào thành phố, xông
lên giữa đạn giặc, nghĩa trang: 49”
Mùa xuân
1968, “Miền Tây vô Tổng tiến công” một
thiên phóng sự do Lê Châu và các đồng nghiệp thực hiện.
(#)
Trong
không khí sôi động của những ngày tháng ấy, ống kính của ông không chỉ hướng về
phong trào quần chúng mà còn cùng đồng nghiệp theo chân các đơn vị bộ đội vào
tận thành phố, thị xã.
Ông
và đồng nghiệp đã bám sát trận địa, ghi chép những hình ảnh hào hùng của cuộc
Tổng tiến công. Nhiều quay phim đã anh dũng ngã xuống như người chiến sĩ.
(# nhạc)
13.
Chân dung các quay phim hy sinh, ông Bảy nói với các nhân viên xưởng phim: 34”
Hàng
chục anh chị quay phim đã lần lượt hy sinh. Một đội ngũ vừa mới được đào tạo đã
không kịp mang những thước phim nóng bỏng lửa chiến trường trở về hậu cứ …
(Lời ông Thanh Hùng về khó khăn và vai
trò của ông Bảy)
14.
Ảnh chiếu bóng, học quay phim: 36”
Với vai
trò lãnh đạo Xưởng phim Giải Phóng miền Tây Nam bộ, nhà quay phim Châu Ngọc
Tiếp đã gầy dựng lại đội ngũ. Ông tổ chức đào tạo cán bộ chiếu bóng, mở khóa
huấn luyện và củng cố lực lượng kỹ thuật in tráng.
Ông
đặc biệt chú trọng đào tạo thế hệ quay phim mới, trong đó không chỉ được trang
bị kiến thức cơ bản về tạo hình, mà còn được rèn luyện tính kiên trì, lòng say
mê nghề nghiệp.
Những
quay phim từng được một lần ông chỉ dạy, khó có thể quên người đồng nghiệp,
người chú, người cha đã noi gương cho con cháu.
(Lời ông Việt Hùng về đức tính của ông
Bảy)
15.
Cảnh cuối trận Gò Quao, cảnh cuối Vĩnh Thuận Đông: 14”
Cái
thật rất lãng mạn ấy đã được nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp thể hiện ở cảnh cuối
trận Gò Quao. Tám năm sau, mô-típ đó được học trò của ông lập lại ở cảnh cuối
phóng sự Vĩnh Thuận Đông.
(Lời ông Hùng và ông Dũng về sự gan dạ
của ông Bảy)
16.
Tựa phim Phạm Minh Tước, trích đoạn Vĩnh Thuận Đông , ảnh Tước, Tràng: 29”
Nhiều
quay phim đã noi theo chí khí dũng cảm của ông. Phạm Minh Tước đã thực hiện phóng
sự “Vĩnh Thuận Đông chiều 22/5” với phong cách ấy. Và, anh đã để lại đoạn phim
tư liệu chiến thắng trước lúc vĩnh viễn năm yên dưới lòng đất mẹ …
Phan
Minh Tràng cũng thế, anh đã xông lên với bộ đội trong một lần đuổi giặc về bên
kia biên giới Tây Nam …
Ông
không thể quên những người đồng nghiệp ấy.
(Lời xúc động của Ông Bảy về các đồng
nghiệp)
17.
Tư liệu ông Bảy xem lại ảnh, họp mặt: 15”
Nước
mắt của ông trào ra từ tấm lòng và tính cách yêu – ghét rạch ròi. Ông khóc
thương những đồng nghiệp ngã xuống trong chiến tranh; ông căm giận những tiêu cực
xã hội trong thời bình. Tính cách của ông trước sao sau vậy.
(Lời ông Dũng về ông Bảy, chiến tranh xông
xáo dũng cảm, hòa bình tham gia làm phim chống sự trì trệ)
18.
Trích phim “Chuyện xã tôi”: 21”
Và
như thế ông lao vào mặt trận báo chí. Dựa trên đạo lý Cách mạng mà chia sẻ với
sự nghèo khó của nhân dân. Ông lấy cái tâm để phân tích lẽ đúng điều sai; ông
đem sự thẳng ngay để làm rõ trắng đen trước mỗi sự vật. Ông luôn nghĩ đến nhân
dân, đến từng thân phận con người.
(Lời ông Bảy nói về sự suy nghĩ đến quần
chúng, tâm niệm với nhân dân)
19.
Ông Bảy nhìn ra ngồi, xương rồng trổ bông; đoàn người đi, Trính quay: 36”
(#)
“Không
có ánh sáng không thể có điện ảnh”; và không có ánh sáng không có loài sinh vật
nào tồn tại. Ông chiêm nghiệm điều đó, nghỉ hưu ông thích thú với loài xương
rồng đầy gai nhưng lại cho hoa đẹp …
Đường
ông đi có thể còn nhiều trắc trở, nhưng ông đã mãn nguyện khi con mình đã biết
nối nghiệp cha. Tuổi càng cao, ông càng tin tưởng vào lớp cháu con, vào thế hệ
trẻ.
(Lời Châu Văn Trính về ý thức theo nghề
quay phim)
20.
Ông bà xem ảnh, ảnh, xem các huy chương cùng với con cháu và đồng nghiệp: 32”
Gần
60 năm chung sống trong mái gia đình, nhà quay phim Châu Ngọc Tiếp hạnh phúc
được người vợ chung thủy đảm đang, gánh vác mọi chuyện cực khổ để ông yên tâm
làm tròn nhiệm vụ. Ông thường nói, vinh
quang của ông thuộc về bà tất cả; còn bà thì nhắc rằng, ngoài 10 đứa con do bà
nuôi dạy và thành đạt, ông còn có hàng chục đứa con đồng nghiệp luôn quây quần
bên ông, nối tiếp theo sự nghiệp Điện Ảnh - Sự nghiệp mà trọn đời Nhà quay phim
Châu Ngọc Tiếp dâng hiến.
"CK"
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 2002.
CHIẾN THẮNG GIỒNG THỊ ĐAM - GÒ QUẢN CUNG
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1999.
TRỞ LẠI ĐƯỜNG 1C
Phim
tài liệu thực hiện tại Trung tâm Truyền hình VN tại TP Cần Thơ, công chiếu năm 2001.
NÉT SỬ TẦM VU
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 2000.
TRẦN GIÁC - NGƯỜI NGHỆ SĨ, DŨNG SĨ
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1999.
LÀN SÓNG ĐIỆN NƠI BƯNG BIỀN THUỞ ẤY
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 1996.
ĐỒNG BẰNG DẬY SÓNG
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 2000.
NGÀY SINH TỬ
Phim
tài liệu thực hiện tại Trung tâm Truyền hình VN tại TP Cần Thơ, công chiếu năm 2005.
NHÀ GIÁO ƯU TÚ HỒ THẾ THƯƠNG
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 2000.
NHỮNG HỌA SĨ TRƯỞNG THÀNH TỪ KHÁNG CHIẾN
Phim
tài liệu thực hiện tại Trung tâm Truyền hình VN tại TP Cần Thơ, công chiếu năm 2004.
LỜI BÌNH
1.
Tư liệu
trường Hội họa, Chiến, Hiệp, Phong vẽ : 35”
Đoạn
phim tư liệu này mô tả một buổi thực tập của các học viên Trường Hội họa miền
Tây Nam bộ trong thời chống Mỹ. Khóa học này được tổ chức tại chiến khu rừng
đước Năm Căn – Cà Mau.
Vào
những năm 60, Dương Đình Chiến đã theo học trường này. Anh là lớp họa sĩ kháng
chiến đầu tiên ở miền Tây cùng với Nguyễn Thành Hiệp và nhiều bạn đồng môn
khác. Những khóa đào tạo tiếp sau có Trần Thanh Phong, thuộc lớp trẻ hơn. Họ
tiếp cận với nền mỹ thuật Cách mạng và trưởng thành từ kháng chiến.
(Tựa
phim)
2.
Dòng kinh, họa sĩ Chiến về, vẽ : 60”
Mấy
mươi năm trước, những dòng kinh, con rạch này đã đưa Dương Đình Chiến và tuổi
thơ của anh đi vào kháng chiến.
Giã
từ dòng nước lớn U Minh đỏ thắm ; rời xa con sông Cái Tàu quen thuộc; chia tay
những người thân thương ; tạm biệt những bờ lá cầu tre của làng quê Cà Mau,
Dương Đình Chiến dấn thân vào con đường Cách mạng, cửa ngõ quyết định đưa anh
đến với ngành mỹ thuật kháng chiến.
( # )
Những
mùa dâu Cái Tàu đã giữ lại biết bao kỷ niệm ngọt ngào của quê hương. Nỗi nhớ,
hồi ức chiến tranh và những khát vọng mới đã thúc giục họa sĩ Dương Đình Chiến
chọn những đề tài về Đất Nước, Con Người, nơi mà anh từng sống, từng lăn lộn
với đạn bom, máu lửa.
( # )
3.
Cụm tràm, cò đáp, Hịêp vẽ : 19”
Làng
quê Hiệp Tùng, một vùng đất trù phú thuộc huyện Năm Căn, nối liền với Đất Mũi
Cà Mau, nơi họa sĩ Nguyễn Thành Hiệp sống những ngày thơ ấu êm đềm … Với quê
hương ấy, Nguyễn Thành Hiệp không thể phai mờ kỷ niệm, những cánh cò cứ chao
lượn rộn ràng trong ký ức.
(Lời họa sĩ Hiệp về kỷ niệm)
4.
Bẫy chồn, chống xuồng về : 15”
Và
những ngày vui sống thú vị ấy cũng không sao quên được đối với Trần Thanh
Phong. Vào những năm 60, khi mới hơn 10 tuổi, từ Sóc Trăng, anh đã theo cha mẹ
xuống chiến khu Cà Mau, vào tận làng rừng.
(Phong nói về kỷ niệm)
5.
Cánh đồng có trâu. Chiến, Hiêp, Phong xem ảnh : 36”
Mỗi
người mang theo một hình ảnh riêng về tuổi thơ …
Dương
Đình Chiến là người anh cả trong một gia đình có ba anh em. Mẹ mất sớm, cha đi
kháng chiến, cả ba anh em lần lượt vào chiến khu.
Nguyễn
Thành Hiệp có một hoàn cảnh riêng. Anh là người con thứ tư trong một gia đình
đông con. Năm 16 tuổi, anh tham gia kháng chiến, và từ đó trở thành họa sĩ.
Riêng
Trần Thanh Phong, từ một cậu bé mục đồng, ham cầm súng đánh giặc. Lớn lên, theo
gia đình vào chiến khu, học nghề của cha và mơ ước trở thành nhà điêu khắc.
Mỗi
cuộc đời có một hoàn cảnh riêng, nhưng tất cả đều có chung một điểm xuất phát –
Sự khởi đầu bước đường Cách mạng cũng chính là sự khởi đầu của sự nghiệp mỹ
thuật.
Dở
lại những bức tranh đầu tay, tuy những nét cọ lúc ấy chưa định hình phong cách,
nhưng các anh đã khẳng định sức sống lâu bền cho mỗi bức tranh của mình, vì nó
bắt rễ từ thực tiễn cuộc kháng chiến anh
hùng.
( # )
6.
Múc nước trong rừng, đốn đước : 39”
Những
năm sống giữa rừng, chịu cảnh thiếu nước thiếu rau, nhưng với các anh, tất cả
đều là đầy đủ. Vì ở đó có tình đồng chí, đồng nghiệp ; có tình bầu bạn nghĩa
nhân; có sự sẻ chia niềm vui nỗi buồn, đồng cam cộng khổ.
( # )
Là
người từng trải chiến tranh, nên quá khứ càng lùi xa, càng đọng lại sâu sắc
trong ngọn bút, nét cọ của họa sĩ Dương Đình Chiến. Anh hướng đề tài về những
con người bình dị mà mang đậm tính nhân văn ; để lột tả tầm vóc anh hùng của kháng chiến. Và theo quan niệm đó, với cách
nhìn của người họa sĩ, anh đưa “Cô giao liên” này bước ra từ một gam màu trắng
lạnh, như giá trị âm bản của sự sống thực.
Với
mô-típ ấy, anh đã cùng nhân vật đi giữa “Mưa rừng”. Bên những giọt lạnh có sự
nồng ấm của tình người …
Trong
một ngọn “Gió chiều”, mẹ rưng rưng cầm chiếc áo con. Nước mắt mẹ làm nhòe cả
bức tranh đậm máu chinh chiến …
Họa
sĩ Dương Đình Chiến cũng đã đến những “Nơi đồng đội ngã xuống”. Anh hứng những
cánh hoa mua còn lại để tìm nhớ đến hương hồn người quá cố. Tình đồng chí sao
mà sâu nặng quá !
( # )
Vẫn
với gam màu lạnh đặc trưng ấy, Dương Đình Chiến đã khắc họa nỗi ưu tư của “Ông
đồ nho” trước bao nghịch lý của cuộc
sống – Một biểu hiện hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
(Lời ông Chiến về quan niệm vẽ)
7.
Hiệp vẽ, bức tranh cô gái : 35”
Cũng
với mạch nghĩ đó, họa sĩ Nguyễn Thành Hiệp mang hơi thở của cuộc sống kháng
chiến vào các bức tranh sơn mài của mình bằng một phong cách riêng. Từ nguyên
mẫu mà anh bắt gặp giữa chuyến công tác, Nguyễn Thành Hiệp đã nuôi dưỡng nguồn
cảm hứng tức thời thành ý thức sáng tạo trong suốt hơn 30 năm qua. Vì vậy, mái
tóc mềm mại của cô thôn nữ du kích đã buông xõa một cách lãng mạn trong tranh
của anh. Thực tiễn kháng chiến sinh động, được sự góp nhặt của người họa sĩ, đã
tạo ra một sức sống riêng.
(Lời ông Hịêp về kháng chiến)
8.
Phong làm tượng : 47”
Trần
Thanh Phong cũng suy nghĩ như thế nên anh đã chọn ngành điêu khắc, với tâm
nguyện được miêu tả lòng tôn kính của nhân dân đối với các lãnh tụ. Vì vậy, anh
gởi gấm nét bình dị lồng trong vẻ chân thành của các nhà lãnh đạo ; anh không
chỉ khắc họa các nhà chính trị mà còn mô tả nét riêng của các danh nhân, các
nhà văn, nghệ sĩ, những người đóng góp cho sự nghiệp văn hóa nước nhà. Nghĩ và
làm, Trần Thanh Phong đã để lại dấu ấn
trên hầu khắp các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Mảng
đề tài mà Trần Thanh Phong tập trung thể hiện là truyền thống kháng chiến và
lịch sử đấu tranh của dân tộc. Anh coi đó như một định hướng cho cả đời sáng
tác.
( Lời ông Phong về tâm huyết )
9.
Tượng 962, tượng cá ba sa : 35”
Quả
nhiên, điều anh nghĩ và việc anh làm luôn luôn nhất quán. Nếu vốn sống kháng
chiến tích tụ để anh nhào nặn dáng vẻ anh hùng ; tái tạo các hình tượng chiến
đấu anh dũng, thì nhịp sống hiện đại thôi thúc anh mô tả tầm vóc của nền kinh
tế hội nhập. Anh tôn vinh nét đẹp của loài cá ba sa, vẫy vùng giữa sông nước An
Giang.
( # )
10.
Trường Mỹ thuật, 3 người về thăm : 46”
Sau
ngày giải phóng, Dương Đình Chiến, Nguyễn Thành Hiệp và Trần Thanh Phong cùng
thi vào Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
Mang
theo ngọn lửa nhiệt tình từ cuộc kháng chiến, giữ vững tình yêu trong sáng đối
với sự nghiệp mỹ thuật, được đào tạo chính quy, các anh quyết tâm học, học để
bổ khuyết những gì mà những năm chiến tranh các anh chưa có dịp tiếp cận.
Bây
giờ nhìn lại, kiểm nghiệm những chằng đời đã qua, các anh càng thấm thía : sự
nghiệp không có giới hạn, còn thời gian chỉ là một thoáng tên bay …
( # )
11.
Cò đáp vào tranh, cô gái cầm bông sen ; tranh rừng đước, tư liệu vẽ trong rừng
: 58”
Thực
tiễn đa dạng của cuộc sống phong phú bao giờ cũng là nền móng cho sự sáng tạo.
Một
cánh cò bay rập rờn đâu đó sẽ có dịp đáp lại giữa hồn ai trong bóng chiều thu.
Hay cô gái Huế, lòng trong như dòng Hương Giang, ngắm bông sen mà tưởng mơ đến
thế giới không pha màu tục lụy …
Dù
có cách nhìn như thế nào, miêu tả cái đẹp ra sao, thì cội rễ của sự cảm hứng
sáng tạo cũng bắt nguồn từ cuộc sống và vốn sống. Nếu không tận mắt nhìn thấy
và hòa mình vào làng rừng Cà Mau, các anh khó có thể sáng tạo nên những tác
phẩm mang tính sử thi như thế.
Được
học, được đào tạo trong kháng chiến chỉ là một lẽ, điều quan trọng hơn chính
cuộc kháng chiến mới là trường học lớn.
Vừa
học vẽ, các họa sĩ trẻ thời chiến vừa chống càn giết giặc ; có thử thách mới có
trưởng thành là vậy.
(Lời ông Thái Hà về trường kháng chiến)
12.
Tư liệu vẽ, người xem, phòng triển lãm : 44”
Những
khóa học như thế trong thời chống Mỹ đã đào tạo một đội ngũ họa sĩ, những người
có thể phục vụ yêu cầu Cách mạng một cách thiết thực. Ngay từ khi còn là học
sinh trường Hội họa kháng chiến, tranh ký họa của các anh đã được giới thiệu
với công chúng vùng căn cứ. Giá trị nghệ thuật lúc ấy chỉ đặt ra ở mức độ cổ vũ
kháng chiến. Còn ngày nay trước nhận thức mới của tác giả và khán giả, những
họa phẩm đều được thể hiện bằng các bút pháp hiện đại. Tuy vậy, bản lĩnh của
các anh là biết phối hợp nhuần nhuyễn giữa cái cũ và cái mới, giữa xưa và nay,
giữa chiến tranh và hòa bình.
( # )
13.
Hịêp và các bức sơn mài hoành tráng : 37”
Sau
mấy mươi năm dùi mài học tập và rèn luyện, giờ đây, mỗi họa sĩ có một hoàn cảnh
riêng. Người là nghệ sĩ, người đảm nhận công tác quản lý, nhưng dù ở cương vị
nào các anh cũng coi nghiệp vẽ là một nhu cầu. Bức sơn mài hoành tráng này chỉ
là một phần trong kế hoạch thể hiện bản anh hùng ca kháng chiến chống Mỹ của
họa sĩ Nguyễn Thành Hiệp.
(
# nhạc )
14.
Chiến chụp ảnh, khu tượng Núi Sam : 56”
Đối
với họa sĩ Dương Đình Chiến, anh không những là thành viên tổ chức trại điêu
khắc quốc tế ở An Giang mà còn là người vận động giỏi nhằm tạo nên vườn tượng
đầy sức sống, mang dấu ấn văn hóa của nhiều quốc gia tập hợp về đây.
( # )
Qua trại sáng tác này, thêm một bài học đối với
họa sĩ Dương Đình Chiến, khi anh rút tỉa được một nguyên tắc lớn trong cuộc đời
sáng tác của mình : Mọi tác phẩm đều cần được bắt nguồn từ tấm lòng của người
họa sĩ. Ở đó có sự chia sẻ, có sự hòa nhập giữa tác giả với nhân vật ; giữa sự
sáng tạo nghệ thuật với thực tiễn sâu sắc của cuộc sống.
( # )
Với
các anh, những họa sĩ trưởng thành từ cuộc kháng chiến, niềm hạnh phúc lớn nhất
vẫn là được phục vụ nhân dân. Bởi, giá trị đích thực của một tác phẩm chính là
mang tới cho người xem những niềm vui sống. Và như thế, dù tượng đài được xây
dựng ở đâu, vị trí tốt nhất vẫn là ở lòng người.
( # )
15.
Ba người ngồi, có ghế trống, tranh Tuấn : 49”
Là
những họa sĩ được rèn luyện, thử thách từ cuộc kháng chiến, các anh tự hào với
sự đóng góp của mình. Trong những lần hội ngộ như thế, các anh bùi ngùi nhớ về
người bạn đã ngã xuống – Họa sĩ Trần Thanh Tuấn – một trong những đồng môn hy
sinh ở tuổi đời còn rất trẻ. Những di ảnh của anh là dấu ấn của một con người
trọn tình đồng chí, trọn nghĩa đồng bào ; những bức tranh của anh như một lời
nhắn nhủ về nhân cách của người họa sĩ.
Dương
Đình Chiến, Nguyễn Thành Hiệp, Trần Thanh Phong, những họa sĩ trưởng thành từ
cuộc kháng chiến, đang tiếp tục cống hiến, và tác phẩm của các anh sẽ lung linh
mãi theo thời gian và sự nghiệp mỹ thuật
của Đất Nước.
NÉT CỌ CÒN LẠI
Phim
tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ, công chiếu năm 2003.
MÚA HÁT GIỮA ĐẠN BOM
Phim
tài liệu thực hiện tại Trung tâm Truyền hình VN tại TP Cần Thơ, công chiếu năm 2005.
ƯỚC MƠ CỦA ÔNG MƯỜI SẾU
Phim tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ và Đài Phát thanh - truyền hình tỉnh Đồng Tháp, công chiếu năm 2000.
HỌC TRONG KHÁNG CHIẾN
Phim tài liệu thực hiện tại Đài Truyền hình Cần Thơ,
công chiếu năm 2002.
LỜI BÌNH
1.
Núi non miền Bắc, Bác Hồ nói chuyện với cán bộ – Hũ gạo kháng chiến, cuốn sách
kháng chiến – Lớp học : 30”
Ngay
từ những năm đầu toàn quốc kháng chiến, Bác Hồ đã kêu gọi nhân dân cả nước xóa
nạn mù chữ ; coi nhiệm vụ “chống giặc dốt” ngang hàng với “chống giặc đói” và
giặc ngoại xâm.
Hưởng
ứng lời Bác, nhân dân ta đã tích cực tham gia bình dân học vụ; học cũng là để
đánh thắng giặc Pháp. Đến thời chống Mỹ, ở miền Nam, Đảng ta chủ trương phổ cập
giáo dục và coi đó là nhiệm vụ lớn trong kháng chiến.
(Tựa
phim)
2.
Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời, nhân dân sản xuất, trồng rẫy, làm trường
học, học bình dân : 1’
Với
cao trào Đồng Khởi, cuối năm 1960 Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời – Cuộc
chuyển mình lịch sử của cách mạng miền Nam.
Sau
6 năm sống trong cảnh kìm hãm của kẻ thù, nhân dân nông thôn miền Tây Nam bộ
giờ được tự do trên mảnh ruộng thửa vườn của mình. Và, những mầm hy vọng về một
cuộc sống mới được bắt rễ trên mỗi miền quê giải phóng.
Ngay
từ cuối năm 1962 đầu năm 1963, phong trào giáo dục ở cơ sở đã được phát động.
Như
một luồng sinh khí mới thổi đến, bà con ta ở từng xóm ấp nhiệt liệt hưởng ứng.
Người
góp cây, kẻ góp lá, mỗi gia đình bỏ ra vài ngày công để lo cho con em mình một
ngôi trường ... Cứ như thế, Trường học vùng giải phóng được dựng lên.
Với
phương châm “người biết dạy người chưa biết”, chủ trương xóa nạn mù chữ đã được
triển khai rộng rãi. Có nhiều nơi, chỉ sau mấy tháng học, bà con ta đã viết
thạo đọc thông – Giáo dục phổ thông và bổ túc là cái nền chung của phong trào.
(Lời đ/c Lê Thanh Nhàn, về chủ trương
của khu ủy Tây Nam bộ về học
Bổ
túc văn hóa và Tiểu học).
3.
Họp Ban Tuyên huấn khu : 20”
Vào
các năm 63, 64, vùng giải phóng ở miền Tây Nam bộ được mở rộng, chiếm 2/3 đất
đai. Nhu cầu giáo dục tăng lên nhanh chóng.
Trước
tình hình đó, khu ủy giao nhiệm vụ cho ngành Tuyên huấn soạn thảo sách giáo
khoa tiếng Việt, tiếng Khmer và đào tạo ngay đội ngũ giáo viên.
(Lời đ/c Lê Thanh Nhàn, về trường sư
phạm cung cấp giáo viên
cho
các tỉnh).
4.
Học sinh trường Ninh Bình, làm trường, vác ván : 25”
Phong
trào giáo dục những năm ấy đã ghi lại những nét đẹp riêng trong đời học sinh
vùng giải phóng. Còn với các bậc phụ huynh thì đó là một dấu ấn lớn về tương
lai vững chắc của con em mình.
Hệ
thống giáo dục của miền Tây Nam bộ ra đời và hoạt động thông suốt, từ cấp khu
đến tỉnh, huyện, xã. Ơ mỗi tỉnh lập một trường đào tạo với tên gọi riêng.
(Lời ông Nguyễn Thiện Thuật về trường
Ninh Bình).
5.
Học sinh vỗ tay, cô giáo, học sinh : 15”
Việc
chọn tên trường ở mỗi tỉnh tùy thuộc vào thời điểm ra đời và ý nghĩa lịch sử
của từng địa phương. Vì vậy, trong những năm kháng chiến, tên trường tự nó là
một chủ điểm giáo dục truyền thống cho học sinh ngay từ năm lớp 1.
(Lời đ/c Thanh Hà về tên trường Nguyễn
Văn Trỗi).
6.
Trường có thầy dạy, tan học : 19”
Học
trong kháng chiến thì không có niên khóa, không có nghỉ Hè ; chỉ có những giờ
lên lớp khi giặc không càn quét đánh phá.
Sau
giờ tan trường, cả giáo viên và học sinh đều cùng về chung sống với các gia
đình nông dân – Đó cũng là bài học bứơc đầu của cuộc đời người cán bộ cách
mạng.
(Lời đ/c Việt Hùng về cùng ăn, cùng ở,
cùng làm với dân).
7.
Học sinh cuốc rẫy với dân, trồng bí, hái rau : 15”
Sống
cùng dân, các học sinh được bà con coi như con cháu trong gia đình ; xem như là
những mầm non của Đất Nước, cần được nâng niu. Còn các học sinh làm mọi công
việc giúp dân như việc của mình.
(Lời đ/c Thanh Xuân về học trong nhà dân
vào lúc ác liệt, không lớp).
8.
Múa lâmthôl Khmer Trà Vinh, lợp trường : 16”
Ở
những vùng có nhiều bà con dân tộc, các thiếu sinh người Khmer, người Kinh,
cùng chung sống ; cùng chia xẻ niềm vui và khó khăn gian khổ. Trường kháng
chiến tuy đơn sơ, nhưng đó là cả buổi đầu quan trọng của đời học sinh.
(Lời đ/c Phạm Văn Đấu, về được thầy cô
dạy lòng yêu quê hương,
Đất Nước, dân tộc).
9.
Học sinh trường Tây Đô, ngụy trang đi học : 21”
(
# 6” )
Mỗi
trường có một sắc thái riêng. Đoạn tư liệu này phản ánh một buổi tập luyện của
học sinh Trường Tây Đô, thuộc tỉnh Cần Thơ.
Ngoài
kiến thức văn hóa sẽ được học các thiếu sinh còn được rèn kỹ năng tự vệ.
(Lời đ/c Ngô Chi Lăng, về điều kiện tự
vệ để học).
10.
Khai giảng trường Tây Đô : 30”
Sau
thời gian chiêu sinh từ các huyện, ngành giáo dục tỉnh Cần Thơ chính thức khai
giảng khóa học đầu tiên vào ngày 20/ 7/ 1964.
Phương
châm được áp dụng thống nhất của các trường kháng chiến là học tập trung, ở
phân tán trong nhân dân.
Với
mục đích đào tạo nguồn nhân lực phục vụ lâu dài cho công cuộc chống Mỹ cứu
nước, ngành giáo dục miền Tây Nam bộ phân làm hai cấp học, gồm cấp tỉnh và cấp
khu tổ chức.
(Lời đ/c Lê Thanh Nhàn, về trường khu Lý
Tự Trọng và các trường tỉnh).
11.
Cuốc đất, học sinh rãi hạt, vào lớp : 25”
Vừa
học, các học sinh vừa sản xuất tự túc. Khi thì tham gia cùng nhân dân vỡ hoang
; lúc thì tập tành cuốc rẫy – Lao động là hạt giống gieo vào mỗi lứa học sinh
những bài học đầu tiên.
( # )
Đến
năm 1965, theo đường Trường Sơn, nhiều giáo viên từ miền Bắc về đến miền Tây và
trực tiếp giảng dạy ở Trường khu Lý Tự Trọng.
(Lời giáo viên Lê Văn Ánh, về dạy ở
trường Lý Tự Trọng theo hệ 10 năm).
12.
Học lớp 7, giảng dạy, vui chơi : 20’
Với
hệ đào tạo 10 năm, học sinh lớp 7 được tiếp cận với chương trình Trung học cơ
sở – một trình độ học vấn khá cao trong thời chiến.
Trải
qua những năm tháng sống, lao động và học tập ở Trường Lý Tự Trọng, nhiều kỷ
niệm đẹp về đời học sinh không thể nào quên !
(Lời bà Việt Nga, về tình bạn, tình thầy
trò trong những năm học chung).
13.
Hái rau, nhổ bông súng : 15”
Thuở
ấy, một buổi hái rau cũng tận tụy như giờ lên lớp. Nếp lao động và cách sống
của người học sinh thời chiến được giáo dục từ khi bước vào Trường – Đó là tiêu
chuẩn phẩm hạnh để nhân dân tin yêu, đùm bọc.
(Lời ông Thanh Hà, về gắn bó với dân
được dân mến).
14.
Học sinh giúp dân làm mộc, bà già vá áo, cho đàn gà ăn : 25”
Cùng
ăn cùng ở, học sinh cũng cùng làm mọi việc. Vì vậy, bà con thương học sinh như
người ruột thịt. Vá một chiếc áo rách, chia xẻ nỗi nhớ nhà cùng các cháu ; bà
con quý học sinh cũng là vì yêu cách mạng.
Có
những bà mẹ nuôi một đàn gà để giành cho buổi liên hoan cuối khóa ; mừng tốp
nhỏ lên lớp, tiễn tốp lớn đi làm nhiệm vụ.
(Lời ông Việt Hùng, về người dân lo
trường lớp).
15.
Đẽo súng, tập quân sự : 20”
Học
trong kháng chiến, nhiều lớp thiếu sinh đã được nhà trường giáo dục kiến thức
quân sự. Vừa để có nếp sống gọn gàng, ngăn nắp vừa biết cách tự vệ, và khi cần,
có thể trực tiếp cầm vũ khí diệt địch. Đó cũng là những bài học cơ bản để rèn
luyện và bồi dưỡng lòng dũng cảm của người cán bộ, của một chiến sĩ tương lai.
(Lời ông Thiện Thuật, về nhận súng và tổ
chức chống càn).
16.
Tư liệu chống càn : 25”
Nhiều
học sinh đã trở thành chiến sĩ, cùng với dân quân du kích đánh trả địch khi
chúng đánh phá vào làng xóm.
( # Âm thanh )
Có
trường tham gia tự tạo vũ khí, hoặc xin thêm súng đạn để tự vệ.
(Lời ông Chi Lăng về trang bị súng,
chống càn và bắn rớt máy bay).
17.
Gỡ xác máy bay, chất lúa bên xác máy bay ; địch đánh phá, dỡ hầm bí mật : 78”
( # 10” nhạc )
Học
trong thời chiến là như thế. Có những bài học chưa từng được viết ra thành giáo
án ; chỉ có Trường thực tiễn mới dạy cho lớp học sinh kháng chiến biết lạc
quan, tự tin mà vượt qua mọi gian nan, ác liệt.
( # Âm thanh )
Địch
càng đánh phá, người dân vùng giải phóng càng nhận rõ hơn giá trị việc học của
con em mình. Học để biết đâu là điều thiện, biết đâu là bản chất thâm độc và
tội ác của giặc thù.
( # Âm thanh )
Địch
vốn nham hiểm, đánh hơi biết chỗ trú đóng của các trường kháng chiến, chúng xua
quân càn quét, đánh phá liên miên.
( # Âm thanh )
Vào
những năm ác liệt, địch lùng sục tìm mọi dấu vết trú ẩn của giáo viên và học
sinh. Nhiều trường hợp bị lộ, chúng dã man giết cả thầy cô giáo.
(Lời bà Thanh Xuân, về thầy hiệu trưởng
bị địch giết).
18.
Địch càn, lục soát, đốt : 15”
Lịch
sử của mọi nền văn minh đều lên án hành động đốt sách, giết học trò và thầy cô
giáo. Vậy mà với Mỹ ngụy, chúng không chừa một tội ác nào. Gặp sách chúng đốt,
gặp học trò và thầy cô giáo chúng giết.
(Lời ông Việt Hùng về hai giáo viên bị
địch ném lựu đạn tan xác).
19.
Cây xoay tượng trưng, vầng mây, cuốn giáo án lủng lỗ, in bột, học, lúa cháy :
60”
( #
nhạc )
Thầy ngã xuống tưởng không còn gì cả,
Nhưng còn đây, những trang giấy linh
hồn.
Quyển giáo án khoét nỗi đau sâu thẳm,
Đời học trò in đậm mối thù chung ...
Rồi
những trang giáo án ấy được in lại bằng bột, các lớp học được tiếp tục bằng ý
chí đấu tranh. Học để kháng chiến, học để thắng giặc là như thế.
( #
nhạc )
Vào
các năm 69, 70, 71, mức độ ác liệt ngày càng tăng. Nhiều gia đình bảo bọc thiếu
sinh bị địch đốt phá. Lúa gạo dự trữ bị cháy trụi. Nhân dân và học sinh lại
cùng nhau vượt qua bao nỗi vất vả.
(Lời bà Việt Nga, về sự ăn cháo).
20.
Học sinh đi chài cá, bắt cua : 20”
Có
sống giữa những năm tháng gian nan mới thấu hiểu được lòng dân, nghĩa thầy cô
và tình bè bạn. Những lúc cùng nhau đuổi một đàn cá cạn ; những lúc dò hang sâu
bắt một con cua ... là những thời khoảng quý giá của đời học trò thời chiến ;
là niềm động viên để tất cả cùng đi tới.
(Lời bà Thanh Xuân, về tình thầy cô bạn
bè vượt qua bom đạn).
21.
Tư liệu học sinh dự lễ truy điệu Bác : 63”
Và
trong những ngày bom đạn ấy, vào một sáng tháng 9, học sinh Trường Lý Tự Trọng ngậm ngùi tiễn biệt Bác ra
đi.
( #
nhạc )
Nén
dòng nước mắt tiếc thương, học sinh kháng chiến nguyện vượt qua mọi gian khổ,
quyết học thật tốt để đền đáp ơn Người.
Biến
đau thương thành hành động cách mạng, bà con nhiều nơi ở làng rừng, vùng lõm
dấy lên phong trào học bổ túc văn hóa. Đưa di chúc Bác vào nội dung buổi học,
bà con coi đó là nguồn động viên cổ vũ lớn để mọi người cùng nhau đoàn kết,
quyết tâm bám đất giữ làng.
( #
nhạc )
Những
lúc ban ngày giặc đánh phá, bà con ta tổ chức học cả ban đêm.
(Lời bà Nhã, về học bình dân).
22.
Người đọc báo, sông, lớp bổ túc : 21”
Trong
một thời gian ngắn, có bà con từ chỗ mù chữ, đã có thể đọc được báo chí.
Vào
các năm 72, 73, vùng giải phóng ở miền Tây Nam bộ được mở rộng trở lại. Phong
trào bổ túc văn hóa được củng cố, tạo một sinh khí mới trên các vùng quê nơi
đồn địch vừa rút chạy.
(Lời ông Lê Thanh Nhàn, về củng cố BTVH
và chủ trương đưa cán bộ
ra vùng ven).
23.
Học sinh vùng ven, học sinh vùng giải phóng làm trường : 26”
Vừa
đấu tranh với cách giáo dục thực dân mới của địch ở vùng tạm chiếm, ta vừa vận
động bà con dựng trường, mở lớp theo phương châm : “Vùng giải phóng lan rộng
tới đâu, trường cách mạng mọc lên tới đó”.
Ý
thức được nền giáo dục cách mạng, nhiều bà con không chỉ góp công, mà còn tự
nguyện hiến cả đất đai để làm trường, tình nguyện bảo bọc cả giáo viên.
(Lời ông Lợi, về dạy học ở Khánh Lâm,
học sinh học mau tiếp thu).
24.
Trường dân lập, thanh niên xung phong học bên thùng đạn : 30”
Dù
là trường được dựng lên theo mô hình dân lập, hay trường cấp tỉnh cấp khu, học
sinh thời chiến vẫn xác định rõ mục đích học tập – Học để phục vụ nhân dân, để
thắng giặc.
Đoạn
tư liệu này phản ánh một buổi học bổ túc môn toán của chị em thanh niên xung
phong đường 1C. Các chị cần phải biết tính toán đường đi nước bước, sao cho vũ
khí đến với chiến trường nhanh nhứt, học có mục đích là vậy.
(Lời ông Lê Văn Anh và bà Việt Nga về
mục đích học thời chiến).
25.
Bệnh viện trong rừng, trường bác sĩ, dược, cơ quan báo chí, tòng quân, vui với
dân : 65”
Và,
với mục tiêu học như thế, tất cả học sinh
được đào tạo từ các trường kháng chiến đã trưởng thành ngay trong thời
bom đạn. Nguồn nhân lực này đáp ứng nhu cầu của các cơ quan cấp tỉnh, cấp khu ;
những ngành có tính chuyên môn cao.
Với
vốn văn hóa nhất định, nhiều lớp học sinh lại được tiếp tục đào tạo. Có người
tốt nghiệp y sĩ, dược sĩ từ các trường chuyên môn trong kháng chiến.
Bất
cứ thời đại nào, con người vẫn là vốn quý nhất của xã hội. Trong kháng chiến,
Đảng đã chú trọng đến chiến lược con người, và do vậy mà nguồn nhân lực cách
mạng luôn được bổ sung trên mọi lĩnh vực.
Như
một đàn chim cùng tổ, hết lớp này đến lớp khác, các học sinh kháng chiến tỏa đi khắp nơi. Họ đến bất cứ
nơi đâu mà Tổ quốc đang cần, dù nơi đó là rừng sâu, bưng tối ; dù nơi đó là
chiến trường ác liệt.
Họ
là những con người rất trẻ. Với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh xuân ; với những
năm tháng được đào luyện từ thực tiễn, họ sẵn sàng cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng. Đó là kết quả của những bài học không chỉ ở ghế nhà trường mà còn là từ
những bài học biết tôn trọng nhân dân, yêu quý đồng bào ; từ bài học biết dựa
vào sức mạnh của nhân dân.
(Lời ôngViệt Hùng, bà Xuân, về xã hội
hóa giáo dục có từ thời
kháng
chiến).
26.
Trở lại căn cứ, bà con vui vẻ : 46”
Bây
giờ trở lại những nơi mà trường xưa từng trú đóng, trở lại những làng quê đã
từng nuôi sống và lớn lên ; trong tầm nhìn của những học trò đã trưởng thành,
hẳn đã khơi gợi biết bao điều suy gẫm ...
Hơi
ấm của tình đồng bào vẫn nguyên vẹn như xưa. Gặp lại những người không sinh
thành nhưng đã dưỡng nuôi che chở, những người học trò năm xưa biết lấy gì mà
đền đáp !
( #
nhạc )
Trở
lại cũng có nghĩa là tìm lại. Những anh những chị, những chú những bác năm nào
vẫn còn vẹn nguyên nét cởi mở chân tình. Sự đời dù có đổi thay, nhưng với họ,
tình người không hề thay đổi.
(Lời ông Dũng Tâm về tình ân, nghĩa thầy
cô).
27.
Thăm nhà Dũng Tâm, cô ôm, dở vết thương :18”
Với
anh cũng vậy, bạn bè, thầy cô luôn nhớ đến anh, người thương binh.
( #
nhạc )
Biết
làm sao chia xẻ cùng anh những nỗi đau của chiến tranh, chỉ biết coi đây là
tình đồng chí.
(Lời ông Việt Quân về tình thầy trò và
điều tâm nguyện).
Trường
học kháng chiến đã tạo nên những con người như thế. Trong hơi ấm của tình thầy
trò, đồng chí, đồng đội, tất cả đang tiếp tục đi tới.
(Lời bà Việt Nga về hành trang từ kháng
chiến phục vụ thời bình
và tự hào).
28.
Không khí vui vẻ họp mặt, thầy trò nhìn về vùng căn cứ : 44”
Bây
giờ dù ở đâu, dù đứng trên cương vị nào, hàng vạn học sinh thời kháng chiến vẫn
không quên ơn thầy, tình bạn, nghĩa nhân dân. Những năm tháng học trong kháng
chiến, sẽ mãi còn đọng lại trong tâm hồn của mỗi nhà giáo, mỗi học sinh.
Trong
nguồn sáng vô tận của quá khứ, hiện tại và tương lai sẽ tiếp tục được soi tỏ.
Tin
tưởng những đổi thay của Đất Nước, vui mừng trước những thay đổi của mỗi làng
quê từng nặng nghĩa ân, những học sinh từng sống, lớn lên và trưởng thành từ
nơi ấy tự hào với chặng đời đã qua ; chặng đời đẹp nhất được học trong kháng
chiến.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)